Home » »

Tình hình tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp ở Việt Nam

Hình II-2. KTCQ các XNCN nước ngoài giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 đến 1945 nhấn mạnh tính tạo hình và sự hiện đại của công trình kiến trúc trong XNCN (hình 1,2,3, 4), việc tổ chức KTCQ có đặc điểm thụ động, được tiến hành sau khi các không gian trống được hình thành bởi sự bố trí các công trình sản xuất trong XNCN. Vai trò của KTCQ trong XNCN hạn chế ở việc trang trí và tạo hình không gian (hình 5h chưa thực sự quan tâm tới môi trường và đạc điểm cảnh quan chung quanh .

Hình 11-3. XNCN nước ngoài giai đoạn từ 1945 đến này. Thiết kế KTCQ được coi ỉà một phần quan trong của thiết kế XNCN. Sự hình thành các không gian trống trong XNCN không chỉ còn là hệ quả của việc bố trí công nghệ sản xuất, mà còn chứa đựng trong đó các ý tưởng về tham mỹ, tiện nghi lao động và môi trường. Hình thức của các công trình nhà sản xuất xu hướng xoá đi tính đơn điệu khô cứng của các công trình công nghiệp thường thấy (hình 1,2). Không gian kiến trúc trong XNCN có xu hướng mở ra bên ngoài, kết hợp hài hoà
Với môi trường thiền nhiên chung quanh (hình 3,4,5).
Hình 11-4. Cảnh quan kiến trục các XNCN hiện đại lấy cấc đặc điểm thiên nhiên làm cơ sở cho cấc giải pháp thiết kế thẩm mỹ kiến trúc. Hình 1, 2, 3- sử dụng mầu sắc của nền tự nhiên để tôn tạo và nhấn mạnh tỷ lệ của công trình với không gian xung quanh. Hình 2- Sử dụng không gian mặt nước để nhấn mạnh chiều cao công trình và tạo vùng thị giác rộng để thụ cảm công trình  một cách tổng thể iseluet). Hình 4 – Sử dụng nhịp điệu đột biến theo chiều cao để nhấn mạnh cảnh quan thiên nhiên vùng bình nguyên rộng lợn, giúp phá đi sự đơn điệu của không gian và sự đơn điệu của công trình nhà sản xuất. Mặt nền bẵng hoa và cỏ giúp cho sự hài hoà của công trình dường như mọc lên từ mặt đất, không phá di sự thống nhất với cảnh quan thiên nhiên chung quanh.
  1. 3. Tình hình tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp ở Việt Nam
Giai đoạn phát triển công nghiệp của chúng ta đã phải trải qua nhiều năm khó khăn và những đặc điểm của nó luôn gắn với lịch sử của từng thời kỳ đấu tranh, xây dựng đất nước của dân tộc. Nếu so sánh về thời gian giữa sự ra đời của công nghiệp và kiến trúc công nghiệp trên đất nước ta, yếu tố sau còn rất mới, vì vậy có nhiều vấn đề lý luận cần được hoàn thiện để có thể theo kịp sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ xã hội mà không bị mất đi bản sắc riêng. Một trong các vấn đề đó là việc nghiên cứu tổ chức tốt môi trường lao động hợp lý, trong đó có môi trường kiến trúc cảnh quan trong các XNCN phù hợp với điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế của đất nước. Có thể chia các thời kỳ phát triển công nghiệp của chúng ta thành ba giai đoạn, dựa trên cơ sở các bước ngoặt lịch sử của dân tộc như sau:
1.7.3.2. Thời kỳ trước năm 1954
Đây là giai đoạn Pháp thuộc và của cuộc đấu tranh giành độc lập (1945-1954). Thời kỳ này các nhà máy, xí nghiệp chủ yếu do Pháp xây dựng, có quy mô và công suất nhỏ, tập trung tại một số thành phố lớn, chủ yếu sản xuất hàng tiêu dùng như các nhà máy rượu Hà Nội, nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy giày Thụy Khuê…
- Đặc điểm xây dựng công nghiệp của thời kỳ này mang nặng ảnh hưởng dấu ấn kinh tế – chính trị của một đất nước thuộc địa, nên có quy mô nhỏ, phân tán vô tổ chức, có thể so sánh với thời kỳ xây dựng công nghiệp của các nước Âu-Mỹ ở nửa cuối thế kỷ 19. Tổng mặt bằng các XNCN trong giai đoạn này thòi kỳ đầu thường có dạng phân tán tự phát hoặc phân tán có phân khu, mật độ xây dựng thấp, nên không gian bị chia cắt, thiếu tổ chức. Môi trường lao động được hình thành mang tính tự phát, không đồng bộ và thiếu các kế hoạch phát triển. Vấn đề thẩm mỹ và tiện nghi cho người lao động chưa được đặt ra (do các điều kiện lịch sử).
- Kỹ thuật xây dựng lạc hậu (chủ yếu là thủ công), vật liệu xây dựng nghèo nàn, hệ thống kết cấu đơn giản (chủ yếu là tường chịu lực), nên quy mô hình khối công trình nhỏ, chủ yếu là nhà một tầng, với hình thức kiến trúc đơn giản, nghèo nàn mang nhiều chi tiết, hình thức kiến trúc vay mượn của kiến trúc dân dụng, nên số lượng các hạng mục công trình tương đối nhiều, làm mất tính thống nhất của không gian, ảnh hường nhiều đến cảnh quan;
- Do thiếu định hướng quy hoạch phát triển mở rộng cho tương lai, nên qua nhiều năm sản xuất, mặt bằng chung hầu hết các nhà máy đã có dạng phân tán tự phát, vô tổ chức, làm ảnh hưởng lớn tới việc tổ chức môi trường lao động, môi trường kiến trúc cảnh quan của XNCN bị biến dạng, ảnh hưởng xấu tới dây chuyền sản xuất và môi trường thẩm mỹ cảnh quan chung quanh;
-    Hệ thống giao thông phức tạp, chồng chéo nhau, chia cắt không gian trong XNCN một cách thiếu tổ chức, làm ảnh hưởng rất lớn tới môi trường tiện nghi cũng như thẩm mỹ của người lao động;
-  Các công trình nhà xưởng có quy mô nhỏ, hình thức rất khác nhau năm rải rác không có sự gắn bó giữa các công trình với nhau trong một tổng thê thống nhất, nên MTKT-CQ nghèo nàn và thiếu bản sắc ;
-  Hệ thống giao thông quy mô nhỏ, chồng chéo, mức độ hoàn thiện kém, và không an toàn trong sử đụng, làm ảnh hưởng nhiều tới công tác vệ sinh môi trường và tiện nghi sử dụng cho người lao động ;

Những kinh nghiệm và xu hướng tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp hiện đại

-     Các mối quan hệ tổng thể giữa các thành phần hình thành KTCQ trong xí nghiệp (công trình, cây xanh, địa hình, kiến trúc nhỏ…) chưa liên hệ với nhau một cách thống nhất, hợp lý ; Nhiều XNCN sử dụng các giải pháp cây xanh và kiến trúc nhỏ như những phương tiện bố cục kiến trúc bổ xung đưa vào trong môi trường KTCQ chưa khoa học, chỉ mang tính chất trang trí, bố cục thuần tuý, bỏ qua các chức năng khác có thể khai thác từ cây xanh nên hiệu quả tổ chức KTCQ của XNCN mang tính hình thức, không giải quyết được các vấn đề cơ bản trong tổ chức tiện nghi và bảo vệ môi trường ;
-     Hệ thống đảm bảo kỹ thuật và các thiết bị công nghệ trong XNCN không được tổ chức một cách có ý thức, đồng bộ với công trình và không gian xung quanh, nên trong nhiều trường hợp tính hài hoà và toàn vẹn của tổng thể không được bảo toàn, làm mất đi không chỉ thẩm mỹ chung của bản thân XNCN, mà còn ảnh hưởng tới thẩm mỹ của môi trường quanh.
-     Tính bản sắc và tính phù họp địa phương của kiến trúc cảnh quan các XNCN không được quan tâm, kết quả là có rất nhiều XNCN có hình thức giống nhau hoặc gần giông nhau được xây dựng ở khắp mọi nơi, làm cho cảnh quan chung của XNCN càng trở nên mờ nhạt và nhàm chán, không phù hợp với yêu cầu xã hội;
XNCN không chỉ được coi là thành phần cấu thành trong cấu trúc đô thị, mà còn được đánh giá cao đưa lên vị trí là thành phần hạt nhân có nhiệm vụ trong việc tổ chức hình thành các đô thị mới, vì vậy môi trường KTCQ trong phạm vi một XNCN nói riêng và khu công nghiệp nói chung cần phải được nâng cao cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay,
1.1.2.2. Những kinh nghiệm và xu hướng tổ chức KTCQ các XNCN hiện đại
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội và khoa học - kỹ thuật đã làm nảy sinh những nhu cầu mới đối với môi trường sản xuất và điều kiện lao động nói chung và đặc biệt là yêu cầu đồi với chất lượng thẩm mỹ KTCQ các XNCN. Điều đó khẳng định vai trò quan trọng của yếu tố con người trong thời kỳ phát triển công nghiệp hiện đại. Các XNCN cần không chỉ đẹp và hiện đại, mà còn có vai trò to lớn trong sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ, nâng cao đời sống tinh thần người lao động.
Hiện nay trên thế giới đang hình thành những xu hướng phát triển như sau đối với việc tổ chức KTCQ của các XNCN:
- Tổ chức KTCQ các XNCN hài hoà với thiên nhiên, nếu khu vực xây dựng XNCN có cảnh quan thiên nhiên đa dạng, phong phú ;
-    Xu hướng tổ chức KTCQ các XNCN làm nổi bật tính chất độc đáo của cảnh quan tự nhiên, nếu cảnh quan khu vực có tính bản sắc cao ;
- Xu hướng tổ chức KTCQ của XNCN theo hướng tạo cảnh quan mới, nếu cảnh quan thiên nhiên khu xây dựng xí nghiệp nghèo nàn, đơn điệu;
-    Tăng cường sử dụng mầu sắc trong bố cục thẩm mỹ KTCQ các XNCN là một xu hướng phù hợp với công nghệ và các sản phẩm vật liệu mới;
-    Sử dụng triệt để yếu tố cây xanh, địa hình, kiến trúc nhỏ góp phần làm cho hình khối- không gian quần thể công trình thêm đa dạng, phong phú, bổ xung cho quan hệ hài hoà giữa các công trình là sản phẩm của công nghiệp hoá xây dựng với môi trường thiên nhiên và con người, kết hợp cải tạo và bảo vệ môi trường ;
-    Trong điều kiện KHKT phát triển, nhiều thiết bị lởn trước đây phải để trong nhà, nay đã được thu nhỏ hoặc được bảo vệ dưới các lớp vật liệu siêu bền có khả năng chống lại các yếu tố bất lợi của khí hậu, nên đã được đưa ra ngoài, tiết kiệm chi phí cho xây dựng vỏ bao che đồng thời tạo điều kiện sử dụng các cồng trình thiết bị lộ thiên, làm tăng vai trò và ý nghĩa thẩm mỹ của không gian trống trong xí nghiệp, tạo cảnh quan công nghiệp đặc trưng;
Có thể nói xu hướng nổi bật nhất của tổ chức kiến trúc cảnh quan các XNCN là sự quay I trở lại với thiên nhiên. Hiện nay các yếu tố địa hình thiên nhiên được coi là những yếu tố quan trọng hình thành bộ mặt thẩm mỹ riêng, đặc trưng của kiến trúc cảnh quan, có khả 1 năng gây ấn tượng mạnh mẽ, hoành tráng đối với cảnh quan chung quanh.
Trên đây là một số xu hướng tiến bộ trong việc tìm kiếm các giải pháp cụ thể, cho phép hoàn thiên môi trường KTCQ các XNCN nhằm đáp ứng với đòi hỏi cấp thiết của xã hội đề I ra trong giai đoạn mới hiện nay trong lĩnh vực tổ chức sử dụng và bảo vệ môi trường trong các XNCN.

Những tồn tại và kinh nghiệm tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp trên thế giới

- Tổng mặt bằng XNCN được quy hoạch hợp lý và trật tự. Số lượng các chủng loại công trình giảm, nhiều công trình có chức năng gần giống nhau được kết hợp thành một khối, tạo điều kiện tổ chức các không gian trống tập trung có quy mô lớn, thuận lợi đầu tư xây đựng các tiện nghi kiến trúc cho người lao động ;
- Trong giai đoạn này giải pháp quy hoạch tổng mặt bằng thường được sử dụng là phân khu tập trúng (Hợp khối nhỏ một số công trình trên cùng một khu vực chức năng), nên quy mô công trình và không gian giữa các công trình được tập trung có quy mô lớn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức KTCQ trong XNCN ;
-     Nhờ sử dụng các thành tựu của công nghiệp hoá xây dựng, nên hình khối kiến trúc của quần thể công trình trong XNCN đã có thêm điều kiện và phương tiện để tạo tính thống nhất và các quan hệ hài hoà giữa các công trình với nhau, tạo điều kiện cho phép môđun hoá khu đất XNCN, giúp hình thành những không gian hình học hợp lý và kinh tế trong sử đụng, tiết kiệm đất, nhưng khô cứng và đơn điệu;
- Cạnh tranh gay gắt và nhu cầu về mức sống tăng dẫn tới việc mở rộng quy mô của nhiều XNCN và những yêu cầu cần khuếch trương quảng cáo cho các công ty, xí nghiệp đã tác động tới vai trò thẩm mỹ của môi trường KTCQ trong các XNCN. Tính bản sắc và gây ấn tượng của hình khối kiến trúc, cũng như viộc tổ chức không gian trống trong nhà máy được coi trọng, quan tâm đầu tư;
-     Các kết cấu mới cùng các vật liệu phong phú về chủng loại, đa dạng về màu sắc và chất cảm bề mặt đã làm tăng thêm khả năng tổ hợp các hình thức thẩm mỹ cho bề mặt và hình khối công trình. Đa dạng hoá các yếu tố cảnh quan ;
-     Công nghiệp hoá xây dựng giúp tạo ra những công trình có quy mô hình khối lớn, nhiều khi không còn đáp ứng được quan hệ về tỷ lệ và tỷ xích với con người, đồng thời không chú trọng tính địa phương của cảnh quan nơi xây dựng đã đòi hỏi việc nâng cao chất lượng tổ chức KTCQ trong XNCN ;
- Vai trò to lớn của cây xanh, của địa hình tự nhiên và kiến trúc nhỏ trong công tác tổ chức KTCQ được quan tâm chú ý đặc biệt nhằm giải quyết các nhược điểm nêu trên ;
- Ý thức được môi trường cảnh quan XNCN là một bộ phận của môi trường thiên nhiên và nhân tạo chung quanh, nên bước đầu môi trường cảnh quan bên ngoài khu đất XNCN được coi trọng, bảo vệ, khai thác một cách khoa học và hợp lý ;
Nhìn chung sự phát triển của KHKT và mặt bằng dân trí đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổ chức môi trường kiến trúc các XNCN được tiến thêm một bước mới về chất trong giai đoạn này. Trong những năm gần đây, nhiều thay đổi cơ bản trong các lĩnh vực Khoa học – Kỹ thuật và Văn hoá 1 Xã hội (công nghệ cao, trình độ dân trí người lao động, vấn đề ô nhiễm môi trường…) đã dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng trên quy mô lớn hình thức và cơ cấu tổ chức mặt bằng không gian XNCN, yêu cầu vai trò của thẩm mỹ trong các XNCN, cũng như môi trường vệ sinh công nghiệp cần phải được nâng cao hơn nữa về chất lượng, để có thể đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người lao động.
II.2.     Những tồn tại và kinh nghiệm tổ chức KTCQ các XNCN trên thế giới
II.2.1.     Những mặt tồn tại chung
Trong môi trường lao động của các XNCN tiên tiến trên thế giới, KTCQ đã được tổ chức và đem lại nhiều hiệu quả đáng kể cho quá trình tổ chức sản xuất cũng như cho sự phát
triển chung cửa người lao động. Tuy nhiên còng với các ưu điểm kể trên, các XNCN hiện đại ngày một bộc lộ rõ các nhược điểm của nó trên một số phương diện, nhất là phương diện chất lượng và hiệu quả thẩm mỹ của hình khối công trình, cũng như các yểu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công tác vệ sinh và bảo vệ môi trường trong các XNCN đang là một vấn đề nổi cộm cần phải được quan tâm giải quyết:
- Tính thống nhất giản đơn thông qua các thiết kế và cấu kiện, chi tiết đã được điển hình hoá và thống nhất hoá của tổng mặt bằng và công trình đã tạo ra sự khô cứng của mặt bằng và sự đơn điệu nhàm chán của hình thức công trình (một cái vỏ bọc cho thiết bị và con người mang đầy tính công năng) không hề gây một ấn tượng nào cho người lao động, làm giảm đi chất lượng thẩm mỹ chung của KTCQ trong các XNCN hiện đại;
- Vì số lượng các hạng mục công trình đã giảm nhiều, công trình có kích thước rất lớn nên vai trò của tổ hợp hình khối bản thân công trình đòi hỏi phải có hình thức phong phú đa dạng, nhưng trên thực tế, các công trình do bị ràng buộc bởi các tiêu chuẩn quy phạm, kinh tế và số lượng có hạn của các chi tiết cấu kiện xây dựng tiêu chuẩn, nên hình khối công trình thường có hình thức đơn điệu nên không có sức thuyết phục tạo cảm xúc thẩm mỹ cho người lao động;
- Hình khối kiến trúc nhà công nghiệp thường có quy mô, kích thước lớn nên vấn đề tỷ lệ và tỷ xích của nhà công nghiệp cần phải được quan tâm để có thể tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa các công trình công nghiệp với môi trường tự nhiên, nhân tạo xung quanh và giữa công trình với con người, để con người không trở nên xa lạ giữa các thiết bị máy móc công nghệ

Kiến trúc công nghiệp từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 tới nay

XNCN đã được quan tâm nhiều hơn. Kiến trúc sư Walter Gropius phái biểu như sau: Để làm việc phải xây những cung điện, không chỉ lai cho người công nhân, những nô lệ cứu lao động công nghiệp hiện đại, ánh sáng, không khí và vệ sinh còn cả niềm kiên hãnh của những cộng đồng vĩ đại. Yếu tố thẩm mỹ mang tính đặc trưng trong kiến trúc công nghiệp thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện.
Bộ môn khoa học lao động (ergonomic) do Taylo khởi xướng lừ năm 1903. đã dược nhiều nhà công nghiệp thời kỳ đó đón nhận và được nhà công nghiệp Pho tiếp nhận và phát triển trong những năm 1947. về mặt nào đó lý thuyết này nhằm mục tiêu tận dụng hết khả năng lao động của con người vì mục đích lợi nhuận, nhưng mặt khác nó đã đem lai những quan điểm mới trong công việc tổ chức và quản lý lao động. Yếu tố con ngươi và tinh thần của họ đã được đề cao. Chính Lenin năm 1918 đã chỉ ra. Chính một phần nhờ quan điểm này kiên trúc công nghiệp đã bắt đầu hình thành và tìm thấy chỗ đứng của mình, và cùng với nó là thẩm mỹ canh quan. Những dấu hiệu trên chỉ xuất hiện ở đâu mà vai trò của người lao động được đặt vào vị trí xứng đáng trong xã hội. Trong bối cảnh lịch sử như vậy, kiến trúc công nghiệp bắt đầu có những thay đổi mới về chất trong quan niệm về tổ chức mòi trường lao dộng, đẽ từ đó dán xuất  hiện những sự quan lâm nhiều hơn đối với việc tổ chức kiến trúc cảnh quan các XNCN trong các giai đoạn tiếp theo. Cụ thể công tác tổ chức môi trường lao động trong giai đoạn này về phương diện quy hoạch – kiến trúc có những đặc điểm sau:
- Sử dụng các giải pháp phân khu chức năng nhầm mục đích tổ chức hợp lý quá trình sàn xuất trong lãnh thổ XNCN dẫn đến sự hình thành nhiều loại hình không gian trống với những chức nàng và các yêu cầu thẩm mỹ, môi trường khác nhau ;
- Hình khối kiến trúc nhờ kết hợp sử dụng kết cấu khung chịu lực bằng thép và bê tông cốt thép, nên đã có khả nâng tạo ra những không gian lớn, tuy nhiên các công trinh nhà sản xuất phân tán, nhiều chủng loại hạng mục công trình, nên quy mô cỏng trình khổng 1 ớn hệ thống giao thông và cung cấp kỹ thuật bị kéo dài mật độ xây dựng thấp, nên ảnh hưởng nhiều tới tiện nghỉ sử dụng, hình thái không gian trống và vệ sinh môi trường ;
-   Tổng mặt bằng XNCN thường có dạng phân khu phân tán, nên hình thức không gian trống trong xí nghiệp rất đa dạng, dỗ hài hoà với thiên nhiên ;
-   Hình khối không gian các công trình được phan chiu theo các nhóm trôn các khu vực chức năng. Tuy nhiên các mối liên hệ vổ một khổng gian không đồng nhất, (hiếu chặt chẽ nên làm giảm đi nhiều các yếu tố thẩm mỹ tích cực trong tổ chức cảnh quan ;
-  Yếu tố môi trường tự nhiên, khí hậu chưa được quan tâm, tận dụng như một lợi thế đem lại bản sắc riêng cho công trình và môi trường cảnh quan chung quanh ;
- Do quy hoạch phân tán nôn các hộ thống giao thông và cung cấp kỹ thuật dài và thiếu trật tự, khó đảm bảo cho các nhu cầu an toàn và tiện nghi trong sử dụng.
Nhìn chung việc tổ chức KTCQ trong các XNCN giai đoạn này đã bắt đấu được quan tâm, tuy nhiên còn thiếu tính hệ thống, đồng bộ trong việc tổ chức các khổng gian trống bên ngoài công trình.
Kiến trúc công nghiệp từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 tới nay
Sau chiến tranh, nhiều nhà cửa, xí nghiệp công nghiệp bị tàn phá ở nhiều nơi trôn thế giới, nhu cầu phục hồi kinh tế sau chiến tranh thúc đẩy quá trình xây dựng lại và làm mới các công trình dân dụng và công nghiệp trở nôn cấp thiết. Nhiều công nghệ và vật liệu xây dựng mới được ra đời trong đó phải kể đến sự đóng góp to lớn nhờ sự ra đời của phương pháp xây dựng cồng nghiệp hoá. Nhờ đó các công tác thiết kế và công nghệ thi công xây dựng các công trình đã có những thay đổi lớn về chất, tạo ra bộ mặt kiến trúc công nghiệp với nhiều công trình có tầm vóc xứng đáng đóng góp vào nền kiến trúc của nhân loại.
Các cấu kiện của nhà được sản xuất trong các xí nghiệp, sau đó được lắp ghép tại công trường đã cho phép xây dựng nhiều XNCN trong một thời gian ngắn.
Trong thời gian này các công trình thường bị đơn giản hoá tới mức tối đa, nhằm giảm bớt chi phí xây dựng, người ta chỉ quan tâm trước hết sao cho trong thời gian ngắn nhất hoàn thành được khối lượng xây lắp cao nhất.
Công nghệ sản xuất chủ yếu theo dây chuyền (nhất là các XNCN nhẹ) tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút ngắn khoảng cách giữa các công đoạn sản xuất.
Nhờ các yếu tố cơ bản kể trên, việc tổ chức môi trường lao động trong XNCN đã có những thay đổi đáng kể, qua đó ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của việc tổ chức KTCQ các XNCN.

Tình hình chung của việc tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp trên thế giới

- Thiết kế KTCQ của XNCN cần thoả mãn các yêu cầu về công năng, đặc điểm sản xuất của từng ngành công nghiệp, kết hợp đáp ứng các yêu cầu tiện nghi lao động, nghỉ ngơi và 9 nhu cầu tâm sinh lý của người làm việc trong môi trường lao động sản xuất đó.
- Các chỉ tiêu sử dụng đất phải hợp lý, nhằm nâng cao mật độ xây dựng, khai thác sử 1 dụng hợp lý những ưu điểm của địa hình thiên nhiên và các yếu tố sinh thái sẵn có của hiện 1 trạng cảnh quan ban đầu khu vực xây dựng XNCN.
- Hình thức tổ chức của giải pháp thiết kế KTCQ cần phản ánh được nội dung đặc điểm i sản xuất của XNCN, thể hiện được tính dân tộc và hiện đại trong việc tổ chức cảnh quan, 1 đồng thòi đáp ứng các tiêu chuẩn, quy phạm và yêu cầu thẩm mỹ trong quy hoạch đô thị.
I Các giải pháp thiết kế KTCQ các XNCN cần chứ trọng tới các tác động tới môi trường, J| sao cho có thể hạn chế tới mức tối đa các tác động có hại đến môi trường chung quanh.
Chương II TÌNH HÌNH Tổ CHỨC KIẾN TRÚC CẢNH QUAN CÁC XÍ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
I1l. Tình hình chung của việc tổ chức kiến trúc cảnh quan các XNCN trên thế giới
IL1.1. Thời kỳ tiền công nghiệp (cuối thế kỷ XVIII đến dầu thế kỷ XX)
Nơi xuất phát của xây dựng công nghiệp là tại châu Âu, bằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, cùng với sự ra đời của động cơ hơi nước tại nước Anh vào năm 1760. Thời kỳ đó trong các công xưởng người lao động phải làm việc trong một môi trường không hoàn thiện và rất mất vệ sinh. Trong thời kỳ này diện mạo của kiến trúc các XNCN, các công trình công nghiệp chưa phân biệt rõ với các loại hình kiến trúc khác, do quy mô sản xuất chưa lớn, thiết bị nhỏ và thô sơ nên nhìn chung tính đặc thù công nghiệp của các công trình chưa hề có. Trong thòi gian này các công trình công nghiệp chủ yếu vẫn chịu ảnh hưởng của nhiều loại hình kiến trúc dân dụng khác nhau, còn vấh đề thẩm mỹ trong XNCN chưa hề được đặt ra và quan tâm. Các xí nghiệp thời kỳ này hoạt động như các xưởng thủ công, quy mô nhỏ, lao động cơ bắp là chủ yếu. Tổng mặt bằng của xí nghiệp lộn xộn, chưa được chia thành các khu vực rõ ràng. Mặt bằng hình khối không gian cụm công trình chưa có quy hoạch thống nhất, hình thức các công trình chưa có những nét đặc trưng vé chức năng của công trình công nghiệp. Nhìn chung hệ thống không gian trong các XNCN thời kỳ này chưa được hình thành một cách khoa học và có tổ chức. Vì vậy ở giai đoạn này bộ mặt của xây dựng công nghiệp mới chỉ hình thành thông qua sự tìm tòi của các nhà thiết kế xây dựng, thi công để có những không gian sản xuất lớn hơn phục vụ cho các yêu cầu công năng. Nhìn chung trong thời kỳ này vấn đề tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các XNCN chưa hình thành rõ nét và có một số đặc điểm sau:
-    Việc tổ chức không gian (thông qua mặt bằng chung XNCN) mang tính tập trung đơn giản hoặc phân tán tự phát nên lộn xộn, không có trật tự, tổ chức dây chuyền chức năng thiếu hợp lý và công tác tổ chức lao động chưa được hình thành ;
-    Không có sự thống nhất hài hoà giữa các hình khối không gian công trình và cụm công trình, các điều kiện thống nhất hoá trong xây dựng chưa hình thành ;
-    Hình thức các công trình mang nhiều dấu ấn của các thủ pháp sử dụng trong kiến trục dân dụng (hình thức bén ngoài giống nhà thờ hoặc nhà ở), chưa có nét đặc trưng riêng của KTCN;
-    Do kết cấu nhà chủ yếu là tường chịu lực nên khả năng tổ hợp khối bị hạn chế, các điều kiện vệ sinh công nghiệp không được bảo đảm ;
-    Thiếu sự quan tâm tới các điểu kiện tiện nghi trong xí nghiệp, môi trường bị khai thác bừa bãi, các điều kiện vệ sinh công nghiệp chưa được chú trọng ;
- Sự gắn bó các công trình sản xuất với thiên nhiên chưa được coi trọng.
Mặc dù có những đặc điểm trên, nhưng quy mỏ xây dựng và sản xuất của các XNCN thời kỳ này chưa lớn do đó mức độ tác động xấu tới tự nhiên vẫn còn được kiểm soát.
II.1.2.       Thời kỳ trước chiến tranh thế giới thứ 2 (trước 1945)
Trong thời kỳ này nhờ các tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ và sự ra đời của vật liệu mới, các công trình xây dựng công nghiệp đã mang những nét mới đặc trưng của mình, thể hiện sự khác biệt so với các công trình dân đụng khác thông qua những yêu cầu công năng. Hình khối kiến trúc các công trình luỏn nhấn mạnh chức năng và kết cấu, bỏ qua những chi tiết vụn vặt, rườm rà. Về mặt kinh tế xã hội, các XNCN đã có quy mô lớn, lao động được cơ khí hoá là chủ yếu, mức sản xuất hàng hoá tâng nhanh nên sự cạnh tranh giữa các công ty, xí nghiệp càng trở nên gay gắt. Nguồn năng lượng chính vẫn là than đá và dầu lửa. Trình độ dân trí được nâng cao hơn do sự đòi hỏi của còng nghệ và kv thuậi mới. Và cũng chính trong thời kỳ này vấn đổ mỏi trường lao động trong các

Các yêu cầu cơ bản đối với thiết kế kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp

Nhờ trình độ thẩm mỹ của người lao động được nâng lên, sẽ có tác động tích cực trở lại đối với sản phẩm của họ, thể hiện qua sự mong muốn làm ra những sản phẩm đẹp, có chất lượng cao và những quan hệ công tác, gắn bó với nhau trong công việc giữa những đồng nghiệp
Việc tổ chức hoàn thiện môi trường KTCQ các XNCN là một giải pháp nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho người lao động, nâng cao sức mạnh cạnh tranh của XN trong cơ chế thị trường, đúng như nhận định của một chuyên gia kiến trúc Đức “Không thể có sản phẩm đẹp và chất lượng cao trong một nhà máy xấu” [26], và đương nhiên nếu sản phẩm được thị trường chấp nhận, người lao động có việc làm, mức sống sẽ không ngừng được cải I thiện. Đời sống vật chất được nâng cao, giúp cho người lao động có điều kiện để nâng cao đời sống tinh thần của mình, giúp cho họ có những điều kiện tốt hơn vể y tế, giáo đục, văn hoá và nghỉ ngơi giải trí, làm cho đời sống tinh thần của họ ngày một đa dạng và phong phú. Đó cũng chính là phương tiện có hiệu quả để nâng cao sức khoẻ cho người lao động, ị giúp cho việc hoàn thành các công việc lao động sản xuất trong XNCN ngày một tốt hơn.
1.3.Các yêu cầu cơ bản đối với thiết kế kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp
Trong các XNCN việc tổ chức kiến trúc cảnh quan phải đáp ứng được ba mục tiêu lớn là đáp ứng các chức năng sản xuất, nâng cao chất lượng thẩm mỹ của XNCN và tiện nghi cho người lao động và thông qua đó có những tác động tích cực tới công tác hạn chế ô nhiễm, j bảo vệ môi trường.
Đối với sản xuất, các không gian trống và không gian xây dựng trong XNCN phải được tổ chức hài hoà, thuận tiện trong quá trình đáp ứng các chức nàng sản xuất. Mật độ xây dựng cũng như chiều cao của các công trình phải hợp lý, tạo điều kiện tốt cho các hoạt ị động sản xuất nhưng cũng không làm cản trở tới việc nâng cao chất lượng môi trường lao I động cho người lao động trong XNCN.
Chất lượng thẩm mỹ của XNCN phải được đánh giá không chỉ thông qua các yêu cầu về I chất lượng nghệ thuật, kiến trúc, mà còn phải là các khả năng đáp ứng những yêu cầu về chức năng sản xuất và bảo vệ môi trường. Cái đẹp trong kiến trúc công nghiệp phải là cái đẹp mang tính thực dụng cao. Song cũng không có nghĩa là sự đơn giản thái quá tới mức chỉ còn lại là những vỏ bao che các thiết bị công nghệ một cách lạnh lẽo. Kiến trúc các I XNCN cũng là một loại hình kiến trúc, do đó nó cũng phải có những khả năng giao tiếp với 1 con người và thiên nhiên. Chỉ có như vậy, cái đẹp của các XNCN mới thực sự không chỉ vì I các chức năng, mà còn vì các giá trị nhân vãn hàm chứa trong đó. Thực tế cũng cho thấy, 1 việc tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các XNCN là một giải pháp rất có hiệu quả để đạt được những mục tiêu trên.
Thiết kế kiến trúc cảnh quan luôn gắn bó chặt chẽ với các yếu tố tự nhiên xung quanh, do đó tổ chức cảnh quan cũng có nghĩa là bố trí, tổ chức một cách họp lý các yếu tố tự nhiên và các yếu tố nhân tạo trong một thể thống nhất hài hoà. Điều đó dẫn đến việc các yếu tố tự nhiên được tôn trọng và đánh giá cao trong các thiết kế kiến trúc, vì vậy môi trường thiên nhiên trong thiết kế kiến trúc cảnh quan luôn được gìn giữ và khai thác một cách hợp lý để đem lại những giá trị nhân vãn sâu sắc cho các công trình kiến trúc – môi I trường nhân tạo do con người làm ra, giúp cho các hoạt động xây dựng của chúng ta không phải là những nguyên nhân gây ra tổn thất cho môi trường sống nói chung của muốn loài.
Từ những phân tích nêu trên, có thể nhận thấy sự thiếu đồng bộ trong việc thiết kế tổng mặt bằng XNCN, đã làm cho chất lượng thẩm mỹ và tiện nghi lao động, nghỉ ngơi của người lao động trong xí nghiệp không đáp ứng đầy đủ yêu cầu ngày một cao của xã hội.
Thực tế, các XNCN nhìn chung mới chì chú trọng yêu cầu về công năng sản xuất, các vấn 1 đề khác về quan hệ không gian giữa các công trinh trong xí nghiệp, không gian của xíJjnghiệp trong mối quan hệ với cảnh quan đô thị và cảnh quan thiên nhiên chưa được quan 9 tâm đầy đủ. Nguyên nhân trên dẫn đến sự giảm sút của chất lượng thẩm mỹ kiến trúc XNCN và môi trường nói chung, nên trong quá trình thiết kế KTCQ các XNCN, cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:

Nhiệm vụ của tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các Xí nghiệp công nghiệp

Trong thực tế người ta không thể sống chỉ bằng lý trí, vì một khối lượng thông tin rất lớn về ngoại giới được con người ghi lại bằng tình cảm. Ngoài ra hiện nay chất lượng thẩm mỹ trong các XNCN còn được đánh giá thông qua quan hệ hài hoà của các công trình với thiên nhiên và môi trường cảnh quan chung quanh. Sự hoàn thiện của hình thức và sự giản dị, hài hoà của tổng hợp các nhân tố cấu thành trong cảnh quan kiến trúc XNCN chính là cơ sở của cái đẹp. Tổ chức kiến trúc cảnh quan trong XNCN, ngoài các chức năng nhiệm vụ chung với tư cách là một lĩnh vực kiến trúc cảnh quan, nó còn phải đáp ứng các nhiệm vụ và chức năng cụ thể của môi trường lao động sản xuất trong XNCN.
Kiến trúc cảnh quan có hai đặc điểm cơ bản là có tính hệ thống và tính tương đối. Tính hệ thống thể hiện ở sự liên kết chặt chẽ giữa các không gian trống từ không gian trống tự nhiên rộng lớn tới các không gian trống của đô thị, của khu công nghiệp, của XNCN…
Tính tương đối thể hiện trong quá trình xét phạm vi nghiên cứu thiết kế KTCQ. Ví dụ, khi xét ưong phạm vi của một đô thị thì các khu ở, khu công nghiệp, xí nghiệp công nghiệp vẫn chỉ là các không gian xây đựng, nhưng khi xét trong phạm vi nhỏ hơn như KCN thì trong KCN vẫn có những không gian trống của nó, còn XNCN vẫn coi là không gian xây dựng, chỉ đến khi xét KTCQ của XNCN, thì lúc đó không gian xây dựng của các công trình mới là không gian trống. Vấn đề này thực sự cần thiết để người thiết kế xác định chính xác không gian mà mình cần thiết kế
1.2.   Nhiệm vụ của tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các Xí nghiệp công nghiệp
Tổ chức KTCQ trong XNCN thực chất là một bộ phận của thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng (TMB) XNCN. Nó gắn bó chặt chẽ với các quan hệ tổ chức các khu vực chức năng của TMB, XNCN. Nhiệm vụ và vai trò thiết yếu nhất của thiết kế KTCQ trong XNCN là việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ cũng như môi trường trong XNCN, góp phần hoàn thiện thêm một bước chất lượng tổ chức môi trường lao động trong XNCN. Những nhiệm vụ đó được thể hiện cụ thể thông qua các giải pháp sau:
1.2.1.  Nâng cao chất lượng giải pháp quy hoạch kiến trúc tổng mặt bằng XNCN
Tổ chức quy hoạch hợp lý tổng mặt bằng của XNCN, công trình cũng như cụm công trình luôn là những nhân tố quan trọng được xem xét, đánh giá đầu tiên, vì sự hợp lý của quá trình lao động sản xuất, tính thống nhất của mặt bằng hình khối không gian phụ thuộc rất nhiều vào những bước đi đầu tiên này. Kiến trúc nói chung và kiến trúc công nghiệp nói riêng có nhiệm vụ không phải chỉ tạo ra không gian vật chất thuần tuý, mà cồn phải tổ chức trong đó các quá trình sinh hoạt, lao động sản xuất hợp lý, hài hoà.
Trong kiến trúc công nghiệp, việc tổ chức hợp lý các quá trình sản xuất theo dây chuyền công nghệ trong XNCN mới chỉ đáp ứng được các yêu cầu chức năng của sản xuất, vì vậy các yếu tố khác về thẩm mỹ, về con người và môi trường chưa được quan tâm giải quyết đầy đủ, các điều kiện lao động và tổ chức lao động khó đáp ứng tốt được yêu cầu đòi hỏi của xã hội, nên có thể tạo ra lực cản cho việc hoàn thiện, phát triển XNCN trong tương lai. Để có thể khắc phục những nhược điểm trên, việc bổ xung thêm vào các giải pháp tổ chức quy hoạch tổng mặt bằng XNCN bằng các giải pháp tổ chức KTCQ, nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch kiến trúc của tổng mặt bằng XNCN, hạn chế các tác nhân độc hại sinh ra trong quá trình sản xuất, tạo ra các điều kiện tiện nghi về sử dụng cũng như các điều kiện vi khí hậu cho người lao động góp phần tạo ra một tổng mặt bằng XNCN hợp lý đáp ứng tốt nhiệm vụ tổ chức mồi trường lao động trong xí nghiệp.
1.2.2.  Nâng cao chất lượng thẩm mỹ và tiện nghi của môi trường lao động trong XNCN
Một mồi trường lao động có chất lượng cao chỉ có thể đạt được trên cơ sở một TMB có quy hoạch hợp lý. Tính thẩm mỹ và tiện nghi được biểu hiện không chỉ thông qua việc tổ chức tốt quá trình sản xuất, mà còn phải đáp ứng tốt các yêu cầu về tâm sinh lý của người
lao động, đảm bảo an toàn trong quá trình lao động, đổng thời tạo ra những rung động, xúc cảm thẩm mỹ của con người trong môi trường đó.
Đối vôi không gian trống của XNCN, hình thức của công trình, tỷ lệ, quy mô và tỷ xích của nó phải biểu đạt được các quan điểm thẩm mỹ của xã hội, của thời đại, thông qua hình tượng kiến trúc độc đáo nhằm khẳng định giá trị thẩm mỹ của công trình cũng như niềm lự hào của bản thân người lao động đối với môi trường làm việc của mình.
Không gian kiến trúc được công nhận là có thẩm mỹ nếu như vấn đế tổ chức tiện nghỉ và môi trường trong khổng gian đó được bảo đảm hợp lý. Yếu tố tiện nghi được thê hiện qua sự hợp lý vổ phương diện chức năng và an toàn trong sử dụng cũng như các tiện nghi về chế độ vi khí hậu đối với con người. Vì vậy yếu tố thẩm mỹ và tiện nghi là không thể tách rời, chúng gắn bó một cách hữu cơ với nhau

Một số khái niệm cơ bản về kiến trúc cảnh quan

Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA Tổ CHỨC KIẾN TRÚC CẢNH QUAN TRONG KHÔNG GIAN CÁC xí NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Để mở đầu cho phần cơ sở của việc tổ chức kiến trúc cảnh quan XNCN, chúng ta có thể hình dung công việc của một kiến trúc sư cảnh quan thông qua một trích dẫn của J. o. Simonds “công việc của kiến trúc sư cảnh quan là giúp đem lại mối quan hệ hài hoà giữa các yếu tố con người, công trình, các hoạt động và giao tiếp xã hội với cuộc sống của trái đất I để có thể cùng tồn tại trên hành tinh này” [24].
Môi trường kiến trúc cảnh quan thường được hiểu như là sự hình thành bởi các yếu tố không gian trống và các yếu tố cảnh quan, trong đó gồm yếu tố cảnh quan thiên nhiên là các yếu tố được hình thành và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên như: cây xanh, địa hình, mặt nước và các yếu tố cảnh quan nhân tạo do con người tạo ra như các tác phẩm kiến trúc, các tác phẩm mỹ thuật công nghiệp, các tác phẩm nghệ thuật hoành tráng.
Không gian trống (open space) – là phần lãnh thổ không xây dựng công trình, nhưng có vai trò quan trọng là một thành phần không thể tách rời của kiến trúc công trình, làm không gian chuyển tiếp giữa không gian bên trong công trình với hệ thống không gian rộng lớn bên ngoài, tạo nên một cơ cấu không gian thống nhất, hoàn chỉnh. Không gian trống chính là đối tượng nghiên cứu của kiến trúc cảnh quan. Nói cách khác, kiến trúc cảnh quan là một bộ phận của kiến trúc nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố cảnh quan thiên nhiên với cảnh quan nhân tạo do con người tạo ra trong quá trình hình thành không gian trống [15]. Do đó công tác tổ chức kiến trúc cảnh quan XNCN sẽ là các giải pháp kiến trúc đồng bộ nhằm tổ chức mặt bằng kiến trúc không gian trống trong XNCN bằng các yếu tố cảnh quan.
Không gian trống trong XNCN là phần tiếp tục của không gian nội thất và hình khối công trình trong XNCN, do đó nó không chỉ đáp ứng các yêu cầu công năng như các không gian khác, mà còn là một môi trường thẩm mỹ kiến trúc công trình [30] và môi trường vi khí hậu phù hợp tâm, sinh lý con người.
Như vậy, việc tổ chức kiến trúc cảnh quan XNCN là hoàn thiện một môi trường vật chất và tinh thần bên ngoài nhà sản xuất, vì mục đích sản xuất, người lao động và người dân khu vực chung quanh. Trong đó yếu tố con người phải có vị trí xứng đáng trong mối quan hệ hữu cơ với những yếu tố sản xuất khác, điều đó có ý nghĩa xã hội và nhân đạo rất lớn, vì nó không cho phép tồn tại các công trình công nghiệp mọc lên chỉ vì các mục đích lợi nhuận và kinh tế, bất chấp sự huỷ hoại thiên nhiên và con người. Cho phép tạo ra mối quan hệ hài hoà thống nhất giữa các nhân tố : Công trình I Con người- Thiên nhiên.
Hiện nay việc phát triển công nghiệp đi đôi với sử dụng các dạng nhiên liệu, nguyên liệu thiếu tổ chức đang dẫn đến một mâu thuẫn là chúng ta càng phát triển, môi trường càng bị tàn phá nghiêm trọng và cuộc sống của con người càng bị đe dọa hơn bao giờ hết. Tác hại về sinh thái do các xí nghiệp gây ra đối với môi trường không được quan tâm đúng mức, bộ mặt kiến trúc của các nhà máy chỉ là những vỏ bọc tối thiểu cho những cái máy. Các chuyên gia kiến trúc công nghiệp của Đức – Peter Lorenz và Alecxander Koch, tác giả cuốn sách “Xây dựng công nghiệp” đã viết: “Phần lớn các XNCN có hình thức kiến trúc và ngay cả các chi tiết cũng không đạt yêu cầu… Mặt đứng thường vô hồn, lạnh lẽo, nhiều khi được cố gắng tô vẽ thêm cho sặc sỡ. Chỗ làm việc chỉ được thể hiện sao cho phù hợp với những yêu cầu tính toán tối thiểu, chỗ làm việc không được tiện nghi thoải mái, làm cho mọi người chỉ chực rời bỏ ngay sau tiếng còi tan tầm…”[26].
Kiến trúc cảnh quan XNCN được hình thành bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, song việc nghiên cứu và tổ chức nó không thể tách rời mối quan hệ với các giải pháp thẩm mỹ và môi trường tự nhiên xung quanh, vì các môi trường này đều nằm trong mối quan hệ phụ thuộc và bổ xung lẫn nhau, đan xen vào nhau. Sự mất cân bằng của khu vực này có thể gây nên những ảnh hưởng xấu tới những khu vực khác. Trên cơ sở đó nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa về khái niệm kiến trúc cảnh quan tương đối thống nhất là : ” Kiến trúc cảnh quan là một bộ phận của kiến trúc, giải quyết mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố thiên nhiên và nhân tạo trong việc tổ chức không gian trống ” [15]. Trên cơ sở khái niệm trên, có thể nhận thấy việc tổ chức KTCQ là các giải pháp tổng hợp, đồng bộ theo các quy luật thẩm mỹ kiến trúc thông qua các yếu tố tạo cảnh, nhằm nâng cao chất lượng thẩm mỹ không gian trống của XNCN, đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng thẩm mỹ, môi trường lao động và hạn chế ô nhiễm bảo vệ môi trường. Khái niệm môi trường kiến trúc cảnh quan XNCN có mối liên hệ chặt chẽ tới yếu tố con người, và môi trường chung quanh, trong đó vấn đề thẩm mỹ chiếm một vị trí quan trọng vì nó có nguồn gốc sâu xa từ các hoạt động lao động sản xuất của con người, do đó nó luồn gắn bó và chịu ảnh hưởng rất lớn của các điều kiện xã hội và thiên nhiên.

Tổ chức kiến trúc – cảnh quan trong các xí nghiệp

Để có thể sống tốt hơn, con người và xã hội chúng ta luôn phải nằm trong sự vận động của quá trình phát triển. Các hành động phát triển được tiến hành trên nhiều lĩnh vực khác nhau, như các lĩnh vực kinh tế – xã hội, nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng cơ bản… trong đó phát triển công nghiệp đang là vấn đề cần thiết tạo động lực cho sự phát triển chung của chúng ta. Trong thời gian gần đây việc thi công xây dựng các XNCN đã và đang diễn ra ở nhiều nơi trên đất nước ta. Tuy nhiên, trên cơ sở những kinh nghiệm của nước ngoài và kinh nghiệm thực tiễn trong nước qua nhiều năm xây dựng các công trình công nghiệp, cho thấy các hành động phát triển luôn mang tính hai mặt tốt và xấu: về kinh tế, xã hội, môi trường… ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bền vững của các quốc gia.
Trong kiến trúc công nghiệp, công năng và kinh tế thường là những yếu tố hàng đầu, quyết định tới toàn bộ các giải pháp thiết kế. Môi trường lao động được tạo ra, chỉ là những kết quả tất yếu, mang tính thụ động và phụ thuộc nhiều vào các yếu tố công năng. Trong thực tế kết quả của những thành tựu khoa học – kỹ thuật được sử dụng trong kiến trúc hiện đại, với những khả năng chưa được chế ngự, đã để lại những hậu quả xấu. Các công trình công nghiệp thật đơn điệu, giống nhau ờ khắp mọi nơi và môi trường công nghiêp đang là những nhân tố gây thiệt hại lớn tới môi trường thẩm mỹ đô thị, gây ô nhiễm môi trường sinh thái, sức khoẻ cũng như tám, sinh lý người lao động. Bằng kỹ thuật cao, vô tình con người đã tách mình ra khỏi môi trường tự nhiên, mà hậu quả của nó là chúng ta đang phải đứng trước nguy cơ mất cân bằng sinh thái đối với thiên nhiên dẫn đến mất cân bằng về tâm, sinh lý đối với con người, thông qua sự thoái hoá về lối sống và đạo đức có quy mô toàn cầu.
Các nhà khoa học Ấn Độ ước lượng muốn giảm bớt số người chết và bị bệnh tật do ô nhiễm môi trường không khí gây ra tại Ấn Độ cần phải giảm 50% mức độ ô nhiễm không khí hiện trạng, và chi phí cho việc này phải mất tới 2,08 tỷ USD, tương đương 4,5% tổng giá trị kinh tế của xã hội. Còn chi phí cho các lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung chỉ chiếm khoảng 1% tổng sản lượng quốc dân [1]. Những thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm môi trường khó có thể tính toán một cách chính xác, vì thiệt hại gây ra trong nhiều lĩnh vực kinh tế và tác hại của nó có tính lâu dài, khó khắc phục.
Trong những năm gần đây yếu tố bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống nói chung và môi trường lao động trong các XNCN nói riêng đang là vấn đề nóng bỏng, được đề cập đến như một giải pháp có hiệu quả, nhằm giải quyết những vấn đề tiêu cực như đã nêu trên. Nhiều trào lưu kiến trúc đang có xu hướng quay lại nghiên cứu, gắn bó các giải pháp kiến trúc trên cơ sở địa hình, thiên nhiên khí hậu và con người (thuyết phong thuỷ, kiến trúc hữu cơ, kiến trúc xanh, kiến trúc sinh khí hậu, kiến trúc bền vững…). Điều đó có thể coi như là những phản ứng của con người đối với các mặt tiêu cực của xã hội công nghiệp.
Trong quá trình phát triển kinh tế của mình, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp. Tuy nhiên hình ảnh chung của nền kiến trúc công nghiệp và vai trò của kiến trúc công nghiệp trong quy hoạch thành phố cũng như tính nhân vãn của nó đối với người lao động còn có nhiều hạn chế. Vấn đề này còn tồn tại, vì đã từ lâu vai trò của thẩm mỹ trong kiến trúc công nghiệp đã không được quan tâm, chú ý đầy đủ. Nó đã bị coi nhẹ trong sự phát triển mạnh mẽ của các nhân tố công năng và kỹ thuật. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, kinh tế và khoa học kỹ thuật càng phát triển, mâu thuẫn trên càng lộ rõ, đòi hỏi phải có các giải pháp hiệu quả nhằm đem lại sự cân bằng và thống nhất giữa kỹ thuật với thẩm mỹ, giữa con người với môi trường vật chất, thiên nhiên.
Xã hội càng phát triển và văn minh, nhu cầu thẩm mỹ của con người đòi hỏi càng cao, chính vì vậy vấn đề Tổ chức kiến trúc - cảnh quan trong các XNCN đã và đang là một vấn đề cần thiết trong tình hình hiện nay, nhằm góp phần đem lại vai trò đích thực của kiến trúc cồng nghiệp trong quy hoạch đô thị, cũng như mang lại sự cân bằng về thể chất và tinh thần cho người lao động, thông qua mối quan hệ hài hoà giữa con người với thiên nhiên.
Người lao động hàng ngày phải chi phí một quỹ thời gian tương đối lớn trong các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp, trạng thái tâm sinh lý, sức khoẻ và hiệu quả công việc phụ thuộc rất nhiêu vào chất lượng môi trường lao động thẩm mỹ của họ. Nếu để tính toán ra ngay hiệu quả kinh tế là bao nhiêu, khi chúng ta đầu tư vào các giải pháp thẩm mỹ thì thật khó có thể trả lời ngắn gọn bằng một con số cụ thể, nó cũng khó như không thể nào tính được những tổn thất đối với môi trường và con người, vì những tổn hại đó là vô cùng lớn, có tác động lâu dài, gây ra những hậu quả khó lường. Do đó cần nghiên cứu và có các biện pháp cấp bách, thể hiện trong các chiến lược phòng chống ô nhiễm môi trường và thực hiện các công nghệ xây dựng thích hợp phù hợp với điều kiện khí hậu và thiên nhiên tại các khu vực xây dựng. Chúng ta có thể coi việc tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các XNCN như một phương tiện góp phần hình thành một xu hướng kiến trúc gần gũi với thiên nhiên và con người, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững trong các hoạt động phát triển của con người.

Quá trình tồn tại và phát triển của kiến trúc

LỜI NÓI ĐẦU
Lĩnh vực kiến trúc là một khoa học tổ chức không gian cho các hoạt động của con người. Tại đây hội tụ nhiều kỉêh thức về khoa học kỹ thuậtI nghệ thuật) các yếu tố nhân văn và tâm sinh lý của con người. Tuy theo cấc điều kiện cụ thể của từng giai đoạn lịch sử, yếu tố này hoặc yếu tố khác có thể được chú trọng và nổi trội. Tuy nhiên những xu hướng kiến trúc thái quá về một yếu tố nào đó đều dẫn đến sự mất cân đối khi đánh giá một cách tổng thể giá trị của các không gian kiến trúc.
Không gian kiến trúc không đơn thuần chỉ giới hạn trong phạm vi vỏ bao che của công trình, mà nó trải rộng ra cả các không gian chung quanh, tạo ra những tác động qua lại lẫn nhau về các phương diện thẩm mỹ cũng như môi trường. Chính vì vậy, thiết kế một công trình kiến trúc mà không tính đến những không gian chung quanh là chúng ta đã bỏ qua những tác động đó, làm hạn chế cơ bản sức biểu cảm thẩm mỹ của công trình cũng như khả nâng tổ chức môi trường trong không gian kiến trúc.
Thiết kế kiến trúc XNCN là một bộ phận của thiết kế kiến trúc nói chung, trong đó bao gồm các nội dung tổ chức quy hoạch kiến trúc các hạng mục công trình trên cơ sở các chức năng sản xuất và thiết kể từng hạng mục công trình có trong đó. Điều này cho thấy một phấn lớn các không gian cần phải tổ chức, thiết kế lại không phải nằm bên trong vỏ bao che các công trình, mà là các không gian trống chung quanh các công trình đố trong XNCN. Nếu những không gian này không được tổ chức tốt, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng công trình về cả phương diện thẩm mỹ và môi trường. Ngược lại nếu được tổ chức tốt, các không gian trống này sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ và môi trường trong các XNCN, tạo điều kiện hoàn thiện thêm một bước môi trường lao động trong xí nghiệp và hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trường.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nhu cầu xây dựng các công trình công nghiệp ngày càng lớn. Đại hội Đảng lần thứ IX đã đưa ra phương hướng từ nay đến năm 2020 đưa Việt Nam thành một quốc gia công nghiệp phát triển, điều đó có nghĩa là sẽ phải có khoảng trên 50% dân sô phải hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Như vậy Việt Nam sẽ phải xây dựng nhiều hơn nữa các XNCN trong những năm tới. Ngoài ra, trong tiến trình hội nhập và hợp tác quốc tế, chúng ta cũng phải đáp ứng được những yêu cầu quản lý phù hợp với chất lượng quốc tế (như ISO 9002; ISO 14001). Đặc biệt là chứng chỉ ISO 14001 là một công cụ quản lý về mặt môi trường. Vì vậy có thể nói chất lượng của sản phẩm hiện nay cần được hiểu rộng không chỉ là chất lượng sử dụng của sản phẩm, mà còn là chất lượng của môi trường và con người làm ra sản phẩm đó. Chính vì vậy vấn đề thiết kế kiến trúc cảnh quan trong các XNCN cần được các nhà thiết kế kiến trúc quan tâm hơn nữa, để nó thực sự trở thành một phương tiện tổ chức kiến trúc có khả năng nâng cao chất lượng thẩm mỹ và môi trường trong XNCN, góp phần hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị nói chung đồng thời tạo thuận lợi cho các công trình công nghiệp có bản sắc riêng, tạo ấn tượng thẩm mỹ tốt cho những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Chúng tôi xin cảm ơn trường Đại học Xây dựng đã tạo điều kiện, cảm ơn sự góp ý và khích lệ của GSTSKH. Ngô ThếThi, cảm ơn sự khuyến khích động viên của Khoa Kiến trúc và Bộ môn Kiến trúc Công nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành cuốn sách này.
Cuốn sách “Kiến trúc cảnh quan xí nghiệp công nghiệp” ra đời không tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi mong muốn nhận dược những ý kiến đóng góp bổ sung để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình tồn tại và phát triển, kiến trúc luôn gắn bó chạt chẽ với những đổi thay của kỹ thuật và đời sống xã hội loài người. Đối với kiến trúc, tính nghệ thuật, sự sáng tạo của kỹ thuật và tính nhân văn, phải luôn nằm trong mối quan hệ gắn bó và hài hoà, nhằm mục đích tạo lập một môi trường sống phù hợp với quá trình phát triển của con người. Chính vì vậy, trong quá trình phát triển của lịch sử kiến trúc, các công trình luôn mang trong mình đậm nét dấu ấn của lịch sử, của các phương thức tổ chức xã hội khác nhau, cùng những sắc thái, bản sắc riêng biệt của từng vùng và từng dân tộc. Trong những thập niên nửa đầu của thế kỷ XX, do các điều kiện kinh tế và kỹ thuật mang tính lịch sử của giai đoạn đó, các trào lưu kiến trúc duy lý, kiến trúc công năng đã toả sáng và lan rộng khắp nơi. Nhiều kiến trúc sư lỗi lạc muốn sử dụng kiến trúc như một công cụ để tổ chức xã hội, mặc dù kết quả còn rất hạn chế. Song hiện nay bối cảnh lịch sử đã có nhiều đổi thay, nhiều lĩnh vực hoạt động của con người, trong đó có kiến trúc đang phải đối đầu với những vấn đề gay gắt, mang tính toàn cầu. Đó là làm sao con người có thể phát triển trong sự bền vững của môi trường sinh thái, sao cho sự phát triển không phải là nguyên nhân gây ra sự huỷ diệt của chính bản thân mình…
Ngày nay chúng ta đang ờ trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng đất nước 1 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định nhiệm vụ chính trị của tổ quốc là : “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng vãn minh, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển”.
Chia sẻ :
Các tin khác

0 nhận xét :

Đăng nhận xét

Tin cho thuê mới

Lời khuyên

Hỏi - Ðáp

TƯ VẤN NỘI - NGOẠI THẤT

Tư vấn nội - ngoại thất từ chuyên gia
xuongchothue.com


Seo Blogspot, kho xưởng ; mua Seo Blogspot xưởng, mua Seo Blogspot đất; cho thuê chung cư, căn hộ,...
Xuongchothue.com 1.000.000 tin mua bán và Seo Blogspot, kho xưởng, Seo Blogspot tại Việt Nam. Chúng tôi liệt kê danh sách nhiều thông tin Seo Blogspot nhất phục vụ mọi nhu cầu, từ phòng trọ tới biệt thự cao cấp. Bạn là nhà đầu tư hay gia đình cần nhà để ở? xuongchothue.com đều có thể giúp bạn. Tìm tin Seo Blogspot đất hoặc cho thuê Seo Blogspot mới nhất bằng cách sử dụng công cụ tìm kiếm hoặc các đường link ngay trên trang chủ.
 

Powered By Khám Phá Blog's