Hình II-2. KTCQ các XNCN nước ngoài giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 đến 1945 nhấn mạnh tính tạo hình và sự hiện đại của công trình kiến trúc trong XNCN (hình 1,2,3, 4), việc tổ chức KTCQ có đặc điểm thụ động, được tiến hành sau khi các không gian trống được hình thành bởi sự bố trí các công trình sản xuất trong XNCN. Vai trò của KTCQ trong XNCN hạn chế ở việc trang trí và tạo hình không gian (hình 5h chưa thực sự quan tâm tới môi trường và đạc điểm cảnh quan chung quanh .
Hình 11-3. XNCN nước ngoài giai đoạn từ 1945 đến này. Thiết kế KTCQ được coi ỉà một phần quan trong của thiết kế XNCN. Sự hình thành các không gian trống trong XNCN không chỉ còn là hệ quả của việc bố trí công nghệ sản xuất, mà còn chứa đựng trong đó các ý tưởng về tham mỹ, tiện nghi lao động và môi trường. Hình thức của các công trình nhà sản xuất xu hướng xoá đi tính đơn điệu khô cứng của các công trình công nghiệp thường thấy (hình 1,2). Không gian kiến trúc trong XNCN có xu hướng mở ra bên ngoài, kết hợp hài hoà
Với môi trường thiền nhiên chung quanh (hình 3,4,5).
Hình 11-4. Cảnh quan kiến trục các XNCN hiện đại lấy cấc đặc điểm thiên nhiên làm cơ sở cho cấc giải pháp thiết kế thẩm mỹ kiến trúc. Hình 1, 2, 3- sử dụng mầu sắc của nền tự nhiên để tôn tạo và nhấn mạnh tỷ lệ của công trình với không gian xung quanh. Hình 2- Sử dụng không gian mặt nước để nhấn mạnh chiều cao công trình và tạo vùng thị giác rộng để thụ cảm công trình một cách tổng thể iseluet). Hình 4 – Sử dụng nhịp điệu đột biến theo chiều cao để nhấn mạnh cảnh quan thiên nhiên vùng bình nguyên rộng lợn, giúp phá đi sự đơn điệu của không gian và sự đơn điệu của công trình nhà sản xuất. Mặt nền bẵng hoa và cỏ giúp cho sự hài hoà của công trình dường như mọc lên từ mặt đất, không phá di sự thống nhất với cảnh quan thiên nhiên chung quanh.
- 3. Tình hình tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp ở Việt Nam
Giai đoạn phát triển công nghiệp của chúng ta đã phải trải qua nhiều năm khó khăn và những đặc điểm của nó luôn gắn với lịch sử của từng thời kỳ đấu tranh, xây dựng đất nước của dân tộc. Nếu so sánh về thời gian giữa sự ra đời của công nghiệp và kiến trúc công nghiệp trên đất nước ta, yếu tố sau còn rất mới, vì vậy có nhiều vấn đề lý luận cần được hoàn thiện để có thể theo kịp sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ xã hội mà không bị mất đi bản sắc riêng. Một trong các vấn đề đó là việc nghiên cứu tổ chức tốt môi trường lao động hợp lý, trong đó có môi trường kiến trúc cảnh quan trong các XNCN phù hợp với điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế của đất nước. Có thể chia các thời kỳ phát triển công nghiệp của chúng ta thành ba giai đoạn, dựa trên cơ sở các bước ngoặt lịch sử của dân tộc như sau:
1.7.3.2. Thời kỳ trước năm 1954
Đây là giai đoạn Pháp thuộc và của cuộc đấu tranh giành độc lập (1945-1954). Thời kỳ này các nhà máy, xí nghiệp chủ yếu do Pháp xây dựng, có quy mô và công suất nhỏ, tập trung tại một số thành phố lớn, chủ yếu sản xuất hàng tiêu dùng như các nhà máy rượu Hà Nội, nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy giày Thụy Khuê…
- Đặc điểm xây dựng công nghiệp của thời kỳ này mang nặng ảnh hưởng dấu ấn kinh tế – chính trị của một đất nước thuộc địa, nên có quy mô nhỏ, phân tán vô tổ chức, có thể so sánh với thời kỳ xây dựng công nghiệp của các nước Âu-Mỹ ở nửa cuối thế kỷ 19. Tổng mặt bằng các XNCN trong giai đoạn này thòi kỳ đầu thường có dạng phân tán tự phát hoặc phân tán có phân khu, mật độ xây dựng thấp, nên không gian bị chia cắt, thiếu tổ chức. Môi trường lao động được hình thành mang tính tự phát, không đồng bộ và thiếu các kế hoạch phát triển. Vấn đề thẩm mỹ và tiện nghi cho người lao động chưa được đặt ra (do các điều kiện lịch sử).
- Kỹ thuật xây dựng lạc hậu (chủ yếu là thủ công), vật liệu xây dựng nghèo nàn, hệ thống kết cấu đơn giản (chủ yếu là tường chịu lực), nên quy mô hình khối công trình nhỏ, chủ yếu là nhà một tầng, với hình thức kiến trúc đơn giản, nghèo nàn mang nhiều chi tiết, hình thức kiến trúc vay mượn của kiến trúc dân dụng, nên số lượng các hạng mục công trình tương đối nhiều, làm mất tính thống nhất của không gian, ảnh hường nhiều đến cảnh quan;
- Do thiếu định hướng quy hoạch phát triển mở rộng cho tương lai, nên qua nhiều năm sản xuất, mặt bằng chung hầu hết các nhà máy đã có dạng phân tán tự phát, vô tổ chức, làm ảnh hưởng lớn tới việc tổ chức môi trường lao động, môi trường kiến trúc cảnh quan của XNCN bị biến dạng, ảnh hưởng xấu tới dây chuyền sản xuất và môi trường thẩm mỹ cảnh quan chung quanh;
- Hệ thống giao thông phức tạp, chồng chéo nhau, chia cắt không gian trong XNCN một cách thiếu tổ chức, làm ảnh hưởng rất lớn tới môi trường tiện nghi cũng như thẩm mỹ của người lao động;
- Các công trình nhà xưởng có quy mô nhỏ, hình thức rất khác nhau năm rải rác không có sự gắn bó giữa các công trình với nhau trong một tổng thê thống nhất, nên MTKT-CQ nghèo nàn và thiếu bản sắc ;
- Hệ thống giao thông quy mô nhỏ, chồng chéo, mức độ hoàn thiện kém, và không an toàn trong sử đụng, làm ảnh hưởng nhiều tới công tác vệ sinh môi trường và tiện nghi sử dụng cho người lao động ;