Home » »

Tầm quan trọng của địa hình đối với việc lựa chọn địa điểm xây dựng

Kiến trúc nhỏ thường là các công trình hoặc vật thể kiến trúc không chỉ mang tính thẩm mỹ mà còn có chức năng đáp ứng một số nhu cầu nâng cao chất lượng tiện nghi của con người. Do đó tỷ lệ, kích thước của chúng rất phù hợp với con người, nên thường được sử đụng trong môi trường kiến trúc công nghiệp như một phương tiện bố cục đem lại sự cân bằng về tỷ lệ trong không gian kỹ thuật như các hình thức đèn chiếu sáng, cột cờ, cột đồng hồ, mái che nắng, kiốt… Các hình thức kiến trúc nhỏ tuy có kích thước không lớn, nhưng nếu chúng không được quy hoạch một cách đồng bộ cùng với các công trình kiến trúc lớn, sẽ dễ tạo ra lộn xộn, thiếu tổ chức trong không gian, làm giảm chất lượng thẩm mỹ chung của XNCN (hình III-12).
III.2.2.   Địa hình
Yếu tố địa hình giữ một vị trí tương đối quan trọng, có tác đụng không nhỏ trong việc lựa chọn địa điểm xây dựng và các giải pháp bố cục kiến trúc công trình hoặc tổ chức không gian trống trong XNCN. Căn cứ vào các đặc điểm của địa hình, có thể giúp cho việc hình thành các ý tưởng thiết kế kiến trúc các công trình công nghiệp độc đáo, có bản sắc riêng, phù hợp địa hình chung quanh, về hình thức, địa hình có thể chia thành hai loại chủ yếu: mấp mô – cao thấp và bằng phẳng. về mặt bản chất, địa hình có thé chia làm hai loại: tự nhiên và nhân tạo. Địa hình tự nhiên được hiểu như là yếu tố cảnh quan thiên nhiên, chưa có sự can thiệp của con người. Địa hình nhân tạo là địa hình do con người tạo nên như địa hình cao, thấp của các công trình trong đô thị, hệ thống sân bãi, đường giao thông, các bề mặt lát… Với địa hình cao, thấp – mấp mô, sẽ gặp khó khăn trong công tác thi công xây dựng, nhưng lại góp phần tạo nên cảnh quan kiến trúc đa dạng, phong phú. Yếu tố này được sử dụng hợp lý sẽ tạo khả năng nâng cao chất lượng thẩm mỹ cho công trình, tạo ấn tượng mạnh cho hình khối và đem lại sự thống nhất hài hoà của công trình với cảnh quan chung quanh. Địa hình đa dạng cho phép tổ chức các điểm nhìn phong phú, tạo khả năng thụ cảm không gian cảnh quan từ nhiều hướng và góc độ khác nhau. Cảnh quan được quan sát chủ yếu theo cả hai kiểu là toàn cảnh và hình dáng (panorama, seluet). Tuỳ thuộc vào hình dáng địa hình, trong bố cục kiến trúc cảnh quan có thể giữ nguyên hoặc biến đổi hình dạng địa hình theo từng trường hợp cụ thể. Việc nhấn mạnh đặc điểm hình dáng địa hình được sử dụng để làm nổi bật yếu tố bố cục chính của phong cảnh.
Với địa hình tương đối bằng phẳng, việc lựa chọn hình thức và chất liệu lớp phủ bề mặt sẽ đóng một vai trò quan trọng trong tô chức tiện nghi và thẩm mỹ cảnh quan xí nghiệp. J)ịa hình bằng phăng dễ thi công xây dựng công trình, nhưng tính đa dạng, phong phú của cảnh quan phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tạo hình của công trình. Trong địa hình bằng phẳng, hướng nhìn không thay đổi theo độ cao, nên cảnh quan chủ yếu được thụ cảm theo diện, hình dáng (seluet). Trong thực tế sự lồi lõm hay bằng phẳng của địa hình là cơ sở bố cục cho các yếu tố hình khối khác. Trong nhiều trường hợp “địa hình là đặc trưng cho ngôn ngữ của bức tranh phong cảnh, có ảnh hưởng nhiều tới tâm sinh lý con người” [5].
Ngoài các đặc điểm thẩm mỹ như đã nêu trên, địa hình còn là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn vì khí hậu của khu vực, vì địa hình cao thấp, bằng phẳng có tác dụng cản gió hoặc thông gió hay tạo thành các khe hút gió. Mặt khác các chất liệu bề mặt của địa hình lại có khả nâng hấp thụ hay bức xạ nhiệt nhiều, ít, làm ảnh hưởng không nhỏ tới nhiệt độ của khu vực. Đối với KTCQ của XNCN, việc lựa chọn vật liệu, chất liệu để tổ chức các bề mặt địa hình tại các không gian chức năng khác nhâu hoặc có đặc điểm công nghệ sản xuất khác nhau cũng sẽ rất khác nhau
IIÌ.2.4. Mặt nước
Mặt nước là một yếu tố cảnh quan tự nhiên có những tính chất đặc biệt như khả năng phản chiếu, điều hoà vi khí hậu, trang trí cảnh quan…Trong thực tế mặt nước có thể tồn tại dưới nhiều dạng như: biển, sông, hồ, ao. Phong cảnh có mặt nước thường mang lại hiệu quả tích cực trong việc tổ chức không gian.
Không gian có mặt nước được cảm nhận như rộng lớn, thoáng đãng hơn, mầu sắc và chiều cao của không gian như được nhân lên, có tác động tâm lý đặc biệt đối vói con người. Mặt nước tự nhiên thường có bề mặt phẳng và rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các điểm nhìn theo hướng mặt nước, do đó việc tổ chức kiến trúc theo kiểu tạo seluet luôn đem lại hiệu quả tốt trong việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ của cảnh quan không gian đó. Các công trình, cảnh quan kiến trúc khu vực gần mặt nước thường có yêu cầu cao về chất lượng thẩm mỹ, nên việc lựa chọn các khu vực chức năng ở vị trí này nên được cân nhắc kỹ, có tính đến các yếu tố thẩm mỹ của cảnh quan chung quanh. Trong các XNCN, mặt nước lớn thường được chọn làm trung tâm bố cục của các công trình kiến trúc có yêu cầu cao về phương diện thẩm mỹ, ngoài ra các khu vực không gian kề cận mặt nước còn có thể được sử dụng làm các khu vực nghỉ ngơi hoặc đi dạo của công nhân. Đối vối các không gian có cảnh quan đơn điệu, việc tổ chức mặt nước cho phép làm đa dạng hoá và phong phú thêm cảnh quan ban đầu. Ngoài những ưu điểm về thẩm mỹ nêu trên, mặt nước rộng cho phép gió, không khí lấy lại tốc độ và sự trong sạch ban đầu trước khi vào đến không gian bên trong của xí nghiệp và công trình. Có thể nói mặt nước là một yếu tố sinh thái góp phần không nhỏ vào việc cân bằng tâm sinh lý cho người lao động và ảnh hưởng lớn tới môi trường vi khí hậu của xí nghiệp công nghiệp.

Công trình kiến trúc nhỏ

Đối với các XNCN khi các công trình kỹ thuật lộ thiên được tập trung ở mật độ cao, sẽ tạo thành tổ hợp công trình kỹ thuật có quy mô kích thước lớn, hình khối đa dạng, phong phú, có khả năng khống chế các điều kiện thụ cảm thị giác và chia cắt, tạo hình không gian mạnh. Tuy nhiên đây là khu vực tập trung một diện tích lớn các bề mặt có hệ số hấp thụ và phản xạ cao, do đó thường có nhiệt độ cao, nóng và chói. Hình khối các công trình kỹ thuật thường xa lạ đối với các công trình kiến trúc và với con người do đó ưong XNCN nhiệm vụ gắn kết các công trình kỹ thuật với các công trình kiến trúc và cảnh quan chung quanh là một nhiệm vụ quan trọng đối với người thiết kế. Ngoài ra trong khu vực các công trình kỹ thuật thường có nhiều khả năng gây độc hại và có bức xạ lớn, nên thường diễn ra quá trình thông gió bằng áp lực nhiệt, vì vậy nếu khu vực này bố trí ở đầu gió sẽ ảnh hưởng xấu tới các khu vực khác (hình ni-10).
+ Công trình độc lập: Ngoài quần thể công trình, các công trình độc lập trong không gian cũng có một vai trò rất lớn trong việc tạo cảnh và ngữ nghĩa trong không gian. Các công trình nhà một tầng dễ hài hoà với cảnh quan thiên nhiên, các công trình nhà cao tầng và các công trình kỹ thuật lộ thiên có khả năng tạo hình và tạo cảnh trong không gian mạnh mẽ, dễ làm biến đổi tính chất của cảnh quan ban đầu. Tuy nhiên kích thước, hình dạng của nhà và công trình có ảnh hưởng rất lớn tới diện tích của khu vực khuất gió sau nhà, gây ra những bất lợi cho các công trình ở phía sau .
Trong các XNCN, công trình kiến trúc nhà sản xuất; và hành chính sinh hoạt thường có hình dáng, tỷ lệ phù hợp với con người, nên chúng dễ hài hoà với cảnh quan chung quanh. Các công trình nhà một tầng thường có chiều cao khiêm tốn, chia cắt mạnh không gian theo chiều ngang, nên thường được thụ cảm theo diện, dễ hài hoà với thiên nhiên. Các công trình nhà nhiều tầng có chiều cao phát triển, nên có khả năng định hướng, tạo hình và chia cắt không gian mạnh. Tuy nhiên chúng cũng yêu cầu một không gian trống phù hợp với chiều cao để có thể tạo được các điều kiện thụ cảm thị giác, hạn chế ảnh hưởng thông gió và phù hợp, đáp ứng yêu cầu tâm sinh lý con người.
Các công trình kỹ thuật với hình dạng, kích thước, tỷ lệ khác thường, đứng lộ thiên có khối tích tương đối lớn so với các công trình kiến trúc khác trong xí nghiệp, do đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới bố cục kiến trúc của quần thể công trình, và có khả năng làm mất tỷ lệ của các công trình kiến trúc. Theo quan điểm thẩm mỹ hiện nay, các công trình kiến trúc, kỹ thuật và các phương tiện kỹ thuật cần được kết hợp hài hoà với nhau, với môi trường cảnh quan và con người, trở thành một bộ phận tích cực tạo nên chất lượng thẩm mỹ của XNCN. Các công trình kỹ thuật có khả năng tạo hình không gian mạnh nên chúng có ứxể lấn át cảnh quan thiên nhiên, phá vỡ sự hài hoà của tự nhiên hay có tác dụng cải tạo cảnh quan, nâng cao chất lượng thẩm mỹ của khu vực cảnh quan nghèó nàn, đơn điệu. Công trình kỹ thuật có hình khối rất lớn, do đó thường yêu cầu không gian rộng để đáp ứng điều kiện thụ cảm thị giác (hình 3 của hình ni-10).
III.2.2.    Công trình kiến trúc nhỏ
Công trình kiến trúc nhỏ là các công trình kiến trúc có quy mô, kích thước nhỏ, chủ yếu mang tính chất trang trí cho không gian cảnh quan thêm sinh động và thoả mãn một số chức năng liên quan tới tiện nghi cho con người. Trong thực tế, đôi khi kiến trúc nhỏ được sử dụng làm trung tâm của bố cục, tạo điểm nhấn cho công trình và quần thể công trình, liên kết các công trình với nhau thành nhóm, hoặc làm trung gian liên kết giữa công trình vói cảnh quan chung quanh…
Các công trình kiến trúc nhỏ bao gồm: các chòi hóng mát, nghỉ ngơi, nhà để xe, các kiốt, buồng điện thoại, đài kỷ niệm, bể cảnh, vòi phun, bảng thông tin, tường trang trí, dàn hoa, bồn hoa, cổng, hàng rào, nhà bảo vệ, cột cờ, cột đồng hồ, thiết bị chiếu sáng ngoài trời, bàn ghế bố trí ngoài trời, các hình thức quảng cáo có hình khối… (hình in-11,12).
Kiến trúc nhỏ có thể được bố trí độc lập trong không gian, thành nhóm hoặc kết hợp với công trình kiến trúc lớn, để đạt được mục đích là bổ sung hình thức thẩm mỹ cho các công trình kiên trúc công nghiệp và các công trình kỹ thuật khác ; Làm trung tâm tổ chức bố cục quần thể công trình, hoặc tạo điểm nhấn, điểm định hướng trong không gian ; Làm trung gian liên kết công trình với nhau và với cảnh quan chung quanh trong một tổng thể thống nhất ; Nhìn chung kiến trúc nhỏ cần được thụ cảm trong mối tương quan chung của quần thể công trình. Nó có thể là yếu tố hình khối chủ đạo trong bố cục hay chỉ mang tính trang trí, tô điểm thêm cho các yếu tố hình khối và không gian khác trong bố cục. Kiến trúc nhỏ có đặc điểm về hình dáng, tỷ lệ, kích thước dễ hài hòa với tự nhiên, do đó nó có thể kết hợp hài hoà với cây xanh hoặc hoà nhập vào địa hình, thiền nhiên một cách thống nhất như thể một sự “mô phỏng” của tự nhiên (các mái che dang cay, dạng nấm, non bộ…).

Công trình kiến trúc lớn là yếu tố tạo cảnh trong không gian

Không gian hợp nhóm có ưu điểm hạn chế sự chia cắt nhỏ các không gian, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ chức trường nhìn, thông gió và đầu tư tổ chức KTCQ. Ngoài ra các công trình hợp nhóm có thể tạo ra các không gian “mở” nối kết với cảnh quan bên ngoài, vừa tạo ra những không gian “đóng” thuận lợi cho một số nhu cầu cần không gian cách ly trong XNCN.
+ Không gian mạng tế bào: là không gian được tạo ra bởi các công trình nhà sản xuất có mức độ công nghiệp hoá cao thành các đơn nguyên điển hình kết hợp với nhau theo quy luật nhất định. Không gian mạng tế bào được tạo ra nhờ việc áp dụng triệt để các thành tựu tiên tiến nhất của công nghiệp hoá xây dựng, tạo khả năng thích nghi với sự thay đổi, phát triển thường xuyên, nhanh chóng của công nghệ sản xuất. Không gian mạng tế bào thường có những ưu điểm là tạo ra không gian linh hoạt, có khả năng thay đổi, phát triển theo nhiều hướng, có khả năng biến hoá cao thành các kiểu không gian khác nhau (tập trung, họp nhóm…), mà không làm thay đổi cấu trúc chung của tổng thể. Nhược điểm của nó thường tạo ra những không gian hình học khô cứng, đơn điệu, rất khó hoà nhập với các loại địa hình đa dạng, phong phú. Vì vậy không gian mạng tế bào đòi hỏi sự kết họp đồng bộ việc tổ chức các khu vực chức năng của tổng mặt bằng với việc tổ chức môi trường KTCQ ngay từ quá trình thiết kế quy hoạch XNCN.
Công trình kiến trúc lớn là yếu tố tạo cảnh trong không gian:
Kiến trúc công trình không chỉ là mặt bao chung quanh của không gian, mà còn có khả năng tạo ngữ nghĩa cho không gian và định hướng không gian. Tuy nhiên thực tế cho thấy giá trị thẩm mỹ của mỗi công trình kiến trúc phải phụ thuộc vào tổng thể. Công trình kiến trúc lớn thường có hình dạng phong phú, CQ khả năng khống chế không gian và tầm nhìn, do đó thường được sử dụng làm yếu tố hình khối chính trong bố cục phong cảnh và biểu hiện chủ đề tư tưởng của không gian. Trong XNCN, công trình kiến trúc kết hợp với nhau thành quần thể hoặc đứng độc lập. Đối với trường hợp nào chúng cũng là yếu tố tạo cảnh và ngữ nghĩa cho không gian.
+ Quần thể công trình: Trong các XNCN, các công trình có thể kết hợp với nhau trong không gian thành quần thể có quy mô tương đối lớn, đa dạng và mang nhiều nét đặc trưng của kỹ thuật. Do tính chất đồ sộ và dàn trải trên quy mô lớn, nên các công trình kiến trúc của XNCN thưòng khống chế cả một vùng không gian rộng lớn và tương phản mạnh với chung quanh (hình 111-10).
Tuỳ theo kiểu quy hoạch có thể chia không gian quần thể kiến trúc XNCN thành hai loại: XNCN có số lượng hạng mục công trình nhiều và ít, trên cơ sở đó chúng tổ hợp với nhau thành quần thể, tạo nên các kiểu hình khối không gian kiến trúc công trình như sau : Các công trình họp khối tạo thành tổ hợp công trình tập trung thống nhất, có đặc điểm hình khối kích thước, tỷ lệ lớn, khống chế và chia cắt không gian mạnh, đặc biệt là khi chúng được cấu tạo từ các loại kết cấu hiện đại (vỏ mỏng, dây treo…). Công trình hợp khối tạo điều kiện tốt cho thông gió lãnh thổ. Các công trình phân tán theo các khu vực chức năng tạo thành tổ hợp công trình phân tán, có đặc điểm hình khối quy mô công trình không lớn, dễ thích hợp với cảnh quan tự nhiên và tỷ lệ con người. Tuy nhiên nếu việc tổ chức các \ công trình trong’ quần thể không tính đến các điều kiện khí hậu, dễ làm ảnh hưởng xấu đến thông gió chung; Các công trình bố trí song song với nhau tạo thành tổ hợp công trình tuyến có đặc điểm là mở theo hai phương và có hướng, các công trình liên kết với nhau tạo thành diện vì vậy chiều cao, tỷ lệ, mầu sắc và nhịp điệu của các chi tiết kiến trúc công trình có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Ngoài ra các công trình ỏ dạng tuyến thường được bố trí dọc theo các tuyến giao thông, vì vậy cũng sẽ chịu các tác động của các yếu tố, chi tiết trong không gian giao thông đó như cây xanh ven đường, các thiết bị chiếu sáng, các phương tiện thông tin thị giác…ở một số vị trí đặc biệt của tổ hợp công trình theo tuyến thường được tổ chức thêm các không gian điểm nhấn (hai đầu của tuyến, đoạn gẫy hoặc đoạn giữa tuyến).
Các công trình vừa hợp khối, vừa phân tán tạo thành tổ hợp công trình họp nhóm (tự do hoặc theo quy luật) là kiểu trung gian, kết hợp giữa các công trình hợp khối nhò và các công trình đơn lẻ khác theo một quy luật bố cục thẩm mỹ kiến trúc. Các công trình nhỏ hợp khối thành các công trình có quy mô lớn hơn tạo thành yếu tố bố cục chính, với một số công trình khác chung quanh, kết hợp với nhau thành nhóm. Các công trình hợp nhóm cho phép tạo ra sự đa dạng, phong phú về mặt hình khối bố cục của quần thể. Tuy nhiên nếu các công trình “đặe”, có thể làm cản trở đến thông gió tự nhiên trong XNCN;
Các công trình được tổ hợp bởi các đơn. nguyên điển hình kết hợp với nhau theo quy luật nhất định tạo thành tổ hợp công trình mạng tế bào. Quần thể công trình mạng tế bào được tạo ra nhờ việc áp dụng triệt để các thành tựu tiên tiến nhất của công nghiệp hoá xây dụng, tạo khả năng thích nghi với sự thay đổi, phát triển thường xuyên, nhanh chóng của công nghệ sản xuất. Nhược điểm của các công trình điển hình là tạo ra sự đem điệu, khô cứng trong không gian, do đó nhiệm vụ cơ bản trong thiết kế KTCQ các XNCN thuộc loại này là phải sử dụng các yếu tố cảnh quan khác để khắc phục những nhược điểm trên.

Công trình kiến trúc lớn

Thực tế xây dựng cho thấy xu hướng tiến bộ của xây dựng hiện đại (trong đó có xây dựng công nghiệp) là quá trình trở lại với thiên nhiên của các trào lưu kiến trúc (kiến trúc hữu cơ, kiến trúc sinh thái…), trong đó ý tưởng chính là các yếu tố thiên nhiên phần nào đã được nhân tạo hoá và các yếu tố nhân tạo phần nào bị thiên nhiên hoá. Đối với các 1 công trình KTCN, sự tìm tòi của các hình thức kết cấu vỏ mỏng, các kết cấu hoặc hình thức kiến trúc theo hướng phỏng sinh học, hoặc tổ chức các không gian chức năng của XNCN theo hướng gần gũi với thiên nhiên đã đem lại những công trình công nghiệp có chất lượng thẩm mỹ cao, gây ấn tượng sâu sắc cho người thụ cảm, tạo ra những quan niệm mới, tích cực hơn về vai trò thẩm mỹ của các XNCN đối với đô thị và xã hội (hình III-8).
111,2.1.  Công trình kiến trúc lớn
Một trong những yếu tố tạo cảnh nhân tạo lớn có ảnh hưởng mạnh đến thẩm mỹ và sự hài hoà của môi trường là các công trình kiến trúc lớn, vì không gian trống và sự tạo cảnh trong không gian được hình thành chủ yếu bởi các công trình kiến trúc trong xí nghiệp. Các công trình kiến trúc lớn gồm các nhà sản xuất chính, phụ, kho tàng và các công trình kỹ thuật lộ thiên, bán lộ thiên. Chúng vừa có chức năng giới hạn không gian, tạo hình thái không gian, định hướng không gian, tạo hình không gian, kết thúc phối cảnh hoặc làm điểm nhấn, vừa có ảnh hưởng đến khả năng thông gió trong không gian. Trong XNCN các công trình có thể đứng độc lập, hợp nhóm hoặc phân tán dưới nhiều hình thức khác nhau, qua đó tạo ra các đặc điểm không gian khác nhau, ảnh hưởng tới việc lựa chọn các giải pháp thiết kế KTCQ của XNCN.
-  Công trình kiến trúc lớn là yếu tố tạo nên các hình thái không gian XNCN
Không gian trống trong XNCN được hình thành thông qua việc áp dụng một số giải pháp tổ hợp công trình trong XNCN. Tuỳ theo kiểu quy hoạch, các công trình kiến trúc lốn trong XNCN được bố trí, giới hạn các không gian theo những cách khác nhau, tạo thành những kiểu không gian khác nhau. Các không gian trống trong XNCN có thể có các hình thái phân tán theo chức năng, tập trung thống nhất, theo tuyến hoặc hợp nhóm. Cầc hình thái không gian này có ảnh hưởng không nhỏ tới thẩm mỹ môi trường KTCQ của XNCN. Ngoài ra còn ảnh hưởng rất lớn tới thông gió toàn lãnh thổ của xí nghiệp (hình III-9).
+ Không gian tập trung thống nhất: được hình thành chủ yếu trong các XNCN có số lượng các hạng mục công trình không nhiều. Các công trình thường được hợp khối với kích thước lớn, có khả năng khống chế thị giác, làm điểm nhấn trong không gian và ảnh hưởng tương đối mạnh đến kiến trúc cảnh quan không gian bên ngoài XNCN. Đặc điểm của các công trình hợp khối là tạo ra không gian mở ra bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp các giải pháp tổ chức, liên kết bố cục thẩm mỹ kiến trúc các yếu tố tạo cảnh bên trong và ngoài XNCN. Ngoài ra không gian mở cho phép việc tổ chức thông gió lãnh thổ được thuận lợi, linh hoạt.
+ Không gian phân tán: được hình thành chủ yếu trong các XNCN có số lượng các hạng mục công trình nhiều. Các công trình thường có kích thước không lớn, bố trí thành từng nhóm trong các khu vực chức năng. Đặc điểm của không gian phân tán là có lình, thức đa dạng (đóng, mở, nửa đóng) bị phân chia bởi các tuyến giao thông và các công trình. Không gian này có đặc điểm dễ kết hợp hài hoà với địa hình cảnh quan thiên nhiên chung quanh. Tuy nhiên các hạng mục công trình phân tán trong xí nghiệp không chỉ chia cắt không gian, mà còn ảnh hưởng rất nhiều tới các điều kiện thụ cảm thị giác và khả năng thông gió lãnh thổ;
+ Không gian tuyên: Thường được hình thành bởi các công trình dọc theo các tuyên giao thông trong XNCN. Đặc điểm của không gian này là mở theo hai phương đối điện nhau và có hướng, nên điểm nhìn chủ yếu là dọc theo trục của tuyến, do đó ở một số vị trí đặc biệt của không gian tuyến thường được tổ chức thêm các không gian điểm nhấn (hai đầu của tuyến, đoạn gẫy hoặc đoạn giữa tuyến…), để tạo sự phong phú đa dạng cho không gian, định hướng không gian và kết thúc phối cảnh. Như vậy có thể thấy hình khối kiến trúc các công trình điểm nhấn đóng vai trò rất quan trọng trong không gian tuyến. Ngoài ra không gian tuyên thường đồng thời là các kênh thị giác, nối kết các khu vực cảnh quan, do đó kích thước của nó ảnh hưỏng rất nhiều tới trường nhìn, tác động mạnh đến điều kiện thụ cảm cảnh quan kiến trúc của XNCN. Tuy nhiên, do đặc điểm của không gian tuyến là có khoảng cách chiều rộng thường nhỏ hơn nhiều so với chiều dài và cao, do đó ảnh hưởng tới sự lựa chọn kích thước, tỷ lệ của yếu tố tạo cảnh sao cho phù hợp. về mặt môi trường, không gian tuyến có tác dụng như một kênh dẫn gió (nếu có hướng trùng với hướng gió chủ đạo), nên có ảnh hưởng lớn tới cắc giải pháp thông thoáng lãnh thổ;
+ Không gian họp nhóm: là không gian được tạo thành bởi sự liên kết các công trình theo nhóm. Không gian hợp nhóm là kiểu trung gian, kết hợp giữa không gian phân tán và không gian hợp khối. Về mặt thẩm mỹ, không gian hợp nhóm tạo ra sự biến đổi linh hoạt, đa dạng nhưng vẫn thống nhất giữa các không gian với nhau, về mặt môi trường không gian hợp nhóm tạo thuận lợi đón gió chủ đạo từ một huống, sau đó dẫn đến các không gian khác, đáp ứng yêu cầu thông gió lãnh thổ.

Các yếu tố tạo cảnh trong không gian các xí nghiệp công nghiệp

Trong tổ chức kiến trúc cảnh quan của XNCN, các giai đoạn thụ cảm thị giác luôn tương ứng với các điều kiện thụ cảm thị giác. Các điều kiện này được thể hiện thông qua quan hệ giữa khoảng cách đến vật nhìn và chiều cao của vật (L và H). Ngoài các điều kiện trên, việc thụ cảm thị giác còn phụ thuộc vào tốc độ di chuyển của người quan sát, đặc biệt khi người đó chuyển động với vận tốc lớn (ngồi trên xe). Theo nghiên cứu của các tác giả nước ngoài [16], công trình có chiều dài từ 100 n 150m, luôn tạo ra sự đơn điệu, nhàm chán. Để khắc phục, cần tạo ra các điểm nhấn sau mỗi khoảng 100 ‘Ệ. 125m (tương ứng với tốc độ di chuyển 30km/giờ I tương đương gần 100m/24giây, phù hợp vói thời gian lưu ảnh của mắt). Những phân tích ở trên, tuỳ thuộc vào vị trí quan sát, vùng thị giác có thể cho chúng ta thụ cảm hình ảnh ở xa theo hình dáng, hoặc ở tầm trung bình, thụ cảm ở các phối cảnh góc, và ở tầm gần, cho phép thụ cảm chi tiết. Trên cơ sở đó, lãnh thổ XNCN có thể được chia thành ba vùng thụ cảm thị giác: Khu trước XNCN là khu vực chuyển tiếp không gian giữa, trong và ngoài XNCN, mặt khác đây là khu vực có yêu cầu chất lượng thẩm mỹ cao và thường nằm trên các trục giao thông đô thị hoặc khu công nghiệp. Không gian của khu vực này nên được mở ra bên ngoài, do đó cảnh quan ở đây cần được thụ cảm ở phạm vi rộng, liên kết giữa cảnh quan của XNCN với khu vực cảnh quan đô thị. Điều kiện thụ cảm thị giác cho phép thay đổi trong quá trình chuyển động, nên có thể xếp khu trước XNCN vào khu vực thụ cảm thị giác hình dáng chung (seluet), với điều kiện thụ cảm H/L < 1/10. Tại khu vực này, cảnh quan của XNCN cần được tổ chức gắn bó với cảnh quan bên ngoài; Tại khu vực không gian giao thông và không gian giữa hai công trình trong lãnh thổ XNCN thuộc vùng thị giác thụ cảm hình khối (phối cảnh góc) 1/3 > H/L > 1/10 Ị Các khu vực cổng vào, nhóm các công trình khu vực cổng XNCN (vỉa hè, quảng trường, bãi để xe, thường trực…), cửa ra vào công trình, nhà sản xuất, hành chính… thuộc vùng thị giác thụ cảm chi tiết H/L > 1/2. Thực tế cho thấy tại những không gian mở, có thể tồn tại cùng lúc cả 3 loại vùng thị giác, tuỳ theo khoảng cách của người quan sát, do đó khi thiết kế KTCQ khu vực này, người thiết kế cần phải quan tâm từ tổng thể chung tới chi tiết. Còn tại các không gian nửa đóng hoặc đóng, trường thị giác bị hạn chế do đó nhiệm vụ thiết kế KTCQ của không gian lại thiên về việc tổ chức hình khối và các chi tiết trang trí trong không gian của XNCN (hình ni-6, hình III-7). Tổ chức kiến trúc cảnh quan trên cơ sở các vùng thụ cảm thị giác góp phần tạo được sự thống nhất chung của cảnh quan và cho phép bố cục có hiệu quả hơn các yếu tố cảnh quan trong không gian của XNCN.
131.2. Các yếu tố tạo cảnh trong không gian các xí nghiệp công nghiệp
Kiến trúc cảnh quan XNCN được hình thành bởi các yếu tố tạo cảnh thiên nhiên và nhân tạo. Các yếu tố tạo cảnh thiên nhiên là các yếu tố cảnh quan được hình thành và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên như cây xanh, địa hình, mặt nước,.. Các yếu tố này có một quá trình phát sinh và phát triển liên quan tác động đến nhau trong môi trường sinh thái tự nhiên. Sự mất cân bằng của các yếu tố này luôn dẫn đến những tác động xấu cho quá trình phát triển tự nhiên của chúng, qua đó làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm mỹ của không gian, môi trường, các hoạt động kinh tế và sức khoẻ của con người. Các yếu tố tạo cảnh nhân tạo là do con người tạo ra để đáp ứng những nhu cầu đa dạng của con người. Những yếu tố này gồm các công trình kiến trúc lớn, công trình kỹ thuật, hệ thống đường ống kỹ
thuật, kiến trúc nhỏ, các phương tiện thông tin thị giác, các tác phẩm nghệ thuật tao hình 1 mầu sắc, chiếu sáng, được tạo ra trong lòng không gian trống (là nơi trước đó chỉ tồn tại các yếu tố tự nhiên và những quy luật phát triển của chúng), do đó nếu sự có mặt của các 9 yếu tố nhân tạo (nhất là các công trình xây dựng và công trình kỹ thuật) có mức độ và được tổ chức hợp lý trong không gian trống, sẽ hạn chế những biến đổi theo hướng bất lợi đối với môi trường. Ngược lại, nếu quá trình xây dựng thiếu tổ chức và vô độ, vượt quá khả năng điều tiết của môi trường tự nhiên, sẽ tạo ra một môi trường xây dựng bị ô nhiễm, làm thay đổi môi trường sinh thái theo hướng ngày càng xấu đi. Qua đó cho thấy, mối quan hệ giữa các yếu tố tạo cảnh gắn bó hữu cơ với nhau trong một cơ cấu thống nhất. Chúng có thể tôn tạo hay ảnh hưởng xấu lẫn nhau, điều đó chứng tỏ “việc tổ chức KTCQ là một trong những giải pháp bảo đảm việc bảo vệ và sử dụng thiên nhiên hiệu quả nhất “[24]. Nhờ các tác động qua lại hài hoà của các yếu tố thiên nhiên và nhân tạo nên không gian xây dựng do chúng ta tạo lập không những không phá vỡ sự cân bằng sinh thái, mà còn tạo ra môi trường sống mới, hệ sinh thái mới thích hợp với những yêu cầu và phát triển hiện đại của con người.

Quy luật thị giác trong tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp

Trong kiến trúc công nghiệp hiện đại sự so sánh và liên tưởng gắn bó rất nhiều tới các yếu tố công năng. Nhiều hình tượng kiến trúc công nghiệp kỳ vĩ đã được tạo nên bỏi các công năng, nội dung bên trong của nó, tạo ra các xúc cảm thẩm mỹ mạnh, góp phần hình thành ấn tượng thẩm mỹ sâu đậm cho người quan sát. Trong kiến trúc công nghiệp, tính chất so sánh và liên tưởng được sử dụng cho cảnh quan các công trình công nghiệp ở cửa ngõ vào thành phố, nhằm tạo ra các hình tượng khó quên cho du khách ra vào thành phố. Ngoài ra trong các không gian chức năng của XNCN, dựa vào tính liên tưởng, người ta có thể điều chỉnh phần nào kích thước vật lý của không gian để hạn chế các nhược điểm, nâng cao hiệu quả thẩm mỹ trong không gian xí nghiệp.
Ill.l. 7. Quy luật thị giác
Để có thể cảm nhận được vẻ đẹp thẩm mỹ của các tác phẩm nghệ thuật tạo hình (kiến trúc, điêu khắc…), người thưởng thức phải có những điều kiện thị giác nhất định. Ngoài các điều kiện về sinh lý của mắt, còn phải có những điều kiện khác như khoảng cách nhìn, góc
nhìn, nhìn không vướng và một số vấn đề khác liên quan đến sinh lý của mắt (ảo giác I độ xa gần mắt nhận biết không đúng với khoảng cách vật lý…).
+ Trường thị giác Trường thị giác là giới hạn quan sát tốt nhất của mắt người. Theo các nhà nghiên cứu chuyên môn, trường thị giác tốt nhất là một hình nón có các góc nhìn ngang và đứng gần bằng 30° (28-30°), tuy nhiên góc mở có thể lớn hơn rất nhiều (160° theo phương ngang và 75-80° theo phương đứng). Với tính chất thụ cảm của mắt như trên, chúng ta nhận thấy góc nhìn sẽ luôn thay đổi theo tầm nhìn (khoảng cách từ người quan sát đến vật quan sát), với một khoảng cách nhất định, vật nhìn có thể nằm trong tầm quan sát hoặc ở bên ngoài (không nhìn thấy). Vật muốn được nhìn thấy rõ, cần có vị trí nằm trong khu vực của nón thị giác, nếu không độ nhìn rõ sẽ kém đi nhiều. Trên cơ sở những phân tích trên cho thấy đối với lĩnh vực nghệ thuật tạo hình, việc tạo ra hướng nhìn và xác định khu vực thụ cảm thị giác sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo điều kiện thưởng thức các tác phẩm ở điều kiện thụ cảm thị giác tốt nhất, đem đến cho người thường thức các chi tiết, hình khối nghệ thuật mà tác giả tâm đắc nhất.
+ Ảo giác : Đối với mắt, ngoài các tính chất thị giác mang tính vật lý làm việc như một camera, mắt người còn mang tính chất sinh lý của một cơ thể sống, phụ thuộc vào não, do đó nhiều hình ảnh mà ta nhìn thấy không hoàn toàn đúng như các điều kiện vật lý trên thực tế (độ méo hình, khoảng cách xa I gần, không gian rộng – hẹp…), vì đã bị não làm cho sai lệch theo kinh nghiệm của người quan sát, do đó hình ảnh do não thu nhận đã không còn mang tính khách quan, mà đã mang tính chủ quan của người quan sát. Trong thực tế, chính tính chất này của mắt đã được sử dụng để phần nào điều chỉnh lại không gian vật lý, tạo ra một không gian ảo (trong cảm giác), phù hợp với yêu cầu của người sáng tác.
Trên cơ sở tính chất nhìn của mắt bị chi phối bởi não, nên khi nhìn một vật thể, theo kinh nghiệm, ta không chỉ “cảm thấy” độ xa – gần, mà còn có cảm giác nặng I nhẹ hoặc cân – không cân bằng. Ngoài ra hướng nhìn của mắt luôn bị thu hút bởi các vật nhìn có độ sáng, độ bão hoà màu, độ lớn của hình (có tính chất tương đối trên một nền)… đó chính là lực thị giác, nó có đóng góp quan trọng trong việc tạo ra hướng nhìn chính, thu hút sự chú ý của người quan sát vào một điểm mà người sáng tác muốn nhấn manh. Một công trình kiến trúc trên bản vẽ (đúng độc lập) có thể sẽ bị mất tỷ lệ và không còn có được ấn tượng như cũ khi nó được xây dựng trong thực tế, vì lúc đó công trình không còn đứng độc lập nữa, mà quanh nó còn các công trinh kiến trúc khác và cảnh quan chung quanh, công trình sẽ trở nên lớn hơn hoặc nhỏ đi ngoài ý muốn (do sự sai lệch của thị giác) của người thiết kế. Để hạn chế khả năng trên có thể xảy ra, người thiết kế cần quan tâm tới các vấn đề biến hình phối cảnh để hạn chế các văn đề kể trên. Đối với kích thước vật lý của không gian cũng như vậy.
Nhìn chung, những tính chất trên của sự thụ cảm thị giác đã được các nhà nghệ thuật tạo hình khai thác, sử dụng trong quá trình sáng tạo của mình. Trong lĩnh vực tổ chức kiến trúc cảnh quan, đối tượng sáng tác là không gian, nên việc sử dụng một cách có hiệu quả các tính chất trên mang một ý nghĩa rất quan trọng. Do đó trong quá trình thiết kế kiến trúc cảnh quan các XNCN, người thiết kế cần có sự phân tích các đặc điểm không gian để có thể lựa chọn các giải pháp tổ chức cảnh quan hợp lý, khắc phục được phần nào nhược điểm của không gian sẵn có.
+ sử dụng các quy luật thị giác trong tổ chức KTCQ các xí nghiệp công nghiệp
Kiến trúc là một lĩnh vực tổ chức không gian, do đó có liên quan mật thiết tới các điều kiện thụ cam thị giác. Nhiệm vụ cua người kiến trúc sư không chỉ là thiết kế các công trình, Khung cảnh quan, mà còn phải tạo được các hướng nhìn thuận lợi, cho phép mở ra các góc nhìn đẹp, có chất lượng thâm mỹ cao trong không gian. Trong quá trình tổ chức kiến trúc cảnh quan, một trong những nhiệm vụ đầu tiên là cần tổ chức, xác đinh rõ các vùng thị giác trong khu vực cảnh quan. Trên cơ sở đó việc tiến hành tổ chức các yếu tố cảnh quan có thể phát huy được hiệu quả tốt hơn. Các vùng thị giác được phân chia chủ yếu phụ thuộc vào trường thị giác và các hướng chuyển động chính của luồng hàng, luồng người trong khu vực.

Quy luật bố cục thẩm mỹ trong tổ chức không gian kiến trúc

Với tư cách là một không gian kiến trúc, việc tổ chức thẩm mỹ của nó không thể tách ròi các hình thức bố cục của các không gian kiến trúc khác trong XNCN. Có thể nói I bố cục kiến trúc là sự kết hợp theo quy luật và hợp lý của hình khối, không gian vào một hình thức kiến trúc hài hoà thống nhất, đáp ứng các yêu cầu tự nhiên và xã hội của tác phẩm
+ Quy luật bố cục thẩm mỹ trong tổ chức không gian kiến trúc và quần thể kiến trúc công trình các XNCN.
Quy luật này được hình thành trên cơ sở các cặp phạm trù sau:
Thống nhất - biến hoá: Sự thống nhất giản đơn có thể đạt được trên cơ sở sử dụng các giải pháp kết cấu, vật liệu và các hình thức tổ chức hình khối giống nhau (đặc biệt là khi sử dụng các cấu kiện tiền chế và các thiết kế điển hình). Sự thống nhất trong đa dạng có thể đạt được nhờ sử dụng các phương tiện bố cục khác nhau và quy luật thẩm mỹ kiến trúc như: tương phản – vi biến, vần – luật, chủ yếu - thứ yếu, trọng điểm, liên hệ – phân cách… Thống nhất I biến hoá là cặp phạm trù trái ngược nhau, nhưng gắn bó hữu cơ với nhau. Nếu chỉ có thống nhất các hình thức, sẽ dẫn đến sự đơn điệu, ngược lại nếu chỉ có biến hoá, bố cục sẽ thiếu trật tự. thẩm mỹ, do đó cặp phạm trù trên luôn phải đi cùng nhau và có quan hệ mật thiết trong bố cục thẩm mỹ của quần thể công trình. Việc chia hình thái không gian trong XNCN cõng như việc tổ chức KTCQ bằng những giải pháp tổ chức kiến trúc như nhau tại các không gian chức năng khác nhau sẽ không phát huy được hiệu quả thẩm mỹ cần thiết. Ngoài ra sự tương phản về tỷ lệ kích thước của các thiết bị kỹ thuật với các công trình kiến trúc đóng vai trò rất quan trọng trong KTCQ của XNCN
Cân bằng – ổn định: Cân bằng và ổn đinh, đó là quy luật tự nhiên của nhận thức thị giác. Con người luôn có xu hưáng cảm nhận sự vật theo quy luật cân bằng trọng lượng, nếu điều kiện đó không được thoả mãn, sẽ tạo ra những phản cảm tói xúc cảm thẩm mỹ của người quan sát. Cân bằng I ổn định có thể đạt được thông qua các trục bố cục hoặc trục vô hình do người quan sát thiết lập. Sự cân bằng và ổn định có thể được tổ chức đối xứng – phi đối xứng, là giải pháp tổ chức trục bố cục của quần thể công trình, tạo điều kiện nhấn mạnh sự cân bằng và ổn định, sự rõ ràng về hình khối trong không gian của chúng. Trong các XNCN, do các quan hệ đa dạng về mặt chức năng, nên khả năng tạo ra công trình đối xứng không nhiều. Ngược lại, bố cục phi đối xứng phù hợp với các đặc điểm công năng của công nghiệp han, và có khả năng tạo ra các bố cục kiến trúc tự do, phong phú, đa dạng. Đối với không gian kiến trúc của XNCN, sự cân bằng phải được hiểu rộng hơn, thông qua sự cân bằng và ổn định giữa không gian xây dựng và không gian trống, giữa các yếu tố nhân tạo và tự nhiên.. ‘
Tỷ lệ – tỷ xích: Tỷ lệ là mối quan hệ giữa các chi tiết thành phần tổ hợp thành thẩm mỹ kiến trúc công trình cũng như quần thể kiến trúc với nhau. Trong các XNCN hiện đại, tỷ lệ được thống nhất nhờ hệ thống môđun sử dụng trong công nghiệp hoá xây dựng. Như vậy tỷ lệ được sử dụng để đem lại sự thống nhất chung cho các chi tiết, bộ phận trên cùng một công trình và cho quần thể công trình. Tỷ xích là thể hiện mối quan hệ về hình dạng, kích thước của công trình với con người và thiên nhiên chung quanh, hoặc thông qua các vật dụng được chế tạo theo kích thước của con người. Tỷ xích đóng vai trò rất quan trọng trong không gian, nó tạo ra sự ấm cúng, an toàn, tiện nghi, đồng thời giải quyết các vấn đề về tâm lý cho người lao động. Phi tỷ lệ là hiện tượng khi các bộ phận chi tiết của công trình, quần thể công trình có quan hệ tốt với nhau về mặt tỷ lệ, nhưng không đáp ứng các yêu cầu về tỷ xích. Vấn đề này thường xuất hiện trong kiến trúc công nghiệp do có nhiều hệ thống thiết bị kỹ thuật hoặc nhà xưởng có kích thước to lớn khác thường. Trong thực tế, nếu giải quyết tốt vấn đề phi tỷ lệ, sẽ tạo được khả năng tổ hợp các cảnh quan công nghiệp có ấn tượng mạnh mẽ và hùng vĩ khó quên. Đối với con người, có thể lấy lại cảm giác cân bằng tâm sinh lý do hiện tượng phi tỷ lệ gây ra bằng các giải pháp khác.
Đối chiếu – liên tưởng: Con người có xu hướng vươn tới những cái đẹp mà mình yêu thích, cái đẹp đó có được nhờ kinh nghiệm bản thân, mang tính chủ quan cao, nhưng chính nhờ tính chất đó của con người, nhiều hình khối kiến trúc đã trở thành các biểu tượng gần gũi với con người. Nhiều công trình kiến trúc công nghiệp đã đạt được hiệu quả thẩm mỹ cao nhờ tính gợi cảm, hoành tráng, hùng vĩ của nó. Đối chiếu và liên tường thường được gắn với sự so sánh các hiện tượng tự nhiên, đôi khi lại do các quan niệm của con ngưòi trong một xã hội nhất định (vuông thành sắc cạnh tượng trưng cho sự nghiêm trang, các hình có độ cong hoặc không phải là các hình cơ bản, uốn lượn, thường tạo ấn tượng tự do, nhẹ nhàng, bay bổng. Các khối đặc gây cảm giác nặng nề, khối rỗng cho cảm giác ngược lại…). Các màu sắc được gắn vối các yếu tố tâm, sinh lý và vật lý: mầu đỏ – nóng ; màu xanh – mát; mầu trắng – nhẹ ; mầu đen – nặng ; mầu nóng – gần ; mầu lạnh – xa…

Những quy luật về bố cục thẩm mỹ kiến trúc

Khi vị trí XNCN ở cao hơn so với khu dân cư đô thị 1 Trường hợp này XNCN nằm ở vị trí khống chế thị giác của đô thị. Hình dáng của XNCN có thể được quan sát thấy từ nhiều phía ở khu vực trung tâm thành phố. Do đó nhiệm vụ tổ chức cảnh quan ở đây chả yếu tập trung vào khu vực cảnh quan ngoài XN, phần tiếp giáp khu dân cư đồ thị. Cảnh quan của XNCN cần tạo được hình dáng (seluet) chung bên ngoài hài hoà với cảnh quan đô thị. vệ mặt môi trường, việc bố trí XNCN ở cao hơn khu dân cư đô thị, có thể tạo điều kiện lan truyền ô nhiễm vào sâu khu dân cư (nếu ở phía đầu gió chủ đạo vào thành phố), do đó cần chú ý các giải pháp đồng bộ để hạn chế lan truyền ô nhiễm.
Nhìn chung cảnh quan khu trước XNCN, không chỉ giới hạn trong phạm vi diện tích sau hàng rào XNCN, mà còn cả cảnh quan giao thông đô thị tiếp giáp với xí nghiệp. Toàn bộ không gian đó được tổ chức gắn bó với nhau để tạo thành cảnh quan chung khu trước xí nghiệp công nghiệp.
III. 1-6. Những quy luật về bố cục thẩm mỹ kiến trúc
Kiến trúc là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, là sự kết hợp của kỹ thuật và nghệ thuật, trong đó kiến trúc công nghiệp lại là nơi mà những biểu hiện đó tập trung cao độ với nhiều sắc thái khấc nhau đôi khi dẫn đến cả những mâu thuẫn cần phải được giải quyết một cách hài hoà giữa thẩm mỹ và kỹ thuật. Sự hài hoà thẩm mỹ mang tính hiện thực, bao gồm các khái niệm như tính toàn vẹn, tính thống nhất, tính hợp lý của nội dung và hình thức. Sự hài hoà có thể là đơn giản hoặc phức tạp, trong đó sự hài hoà đơn giản là sự cân bằng và hoà hợp một chiều, còn hài hoà phức tạp là sự thống nhất trên cơ sở các mâu thuẫn khấc biệt về lượng và chất. Một hiện tượng, một sự vật chỉ được thừa nhận là đẹp khi chúng đạt tới sự hoàn thiện thẩm mỹ vói tư cách là chuẩn mực cơ bản của cái đẹp. Dựa vào cơ sở nhận thức trên, ta thấy khái niệm hài hoà là tiền đề, điều kiện của hoàn thiện thẩm mỹ, còn hoàn thiện thẩm mỹ chỉ có thể có được khi nó có sự hài hoà, phù hợp vối quan niệm thẩm mỹ của con người, xã hội vì thẩm mỹ là sự thống nhất đạt được thông qua các quy luật của cái đẹp và quan hệ của nó với con người [2].
Giá trị thẩm mỹ của KTCQ các XNCN không thể tách ra khỏi môi trường thiên nhiên, điều mà tác giả N.Khasenco đã viết trong tác phẩm “Bản chất cái đẹp”: “Bất cứ một sự can thiệp, chinh phục thiên nhiên nào vì những lợi ích thuần tuý thực dụng đều phá hoại không chỉ sự sống sinh học mà còn làm mất đi nguồn gốc thẩm mỹ của thiên nhiên ban cho không gì thay thế được…” [2].
Như vậy có thể nói quy luật bố cục thẩm mỹ kiến trúc nói chung và của KTCQ nói riêng là sự hài hoà, thống nhất của các yếu tố thiên nhiên và nhân tạo
Từ các phân tích ở trên, chúng ta thấy vấn đề thẩm mỹ trong kiến trúc công nghiệp cần được giải quyết trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố vật chất phục vụ sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, công nghệ sản xuất, sức lao động, môi trường vi khí hậu, cảnh quan, tiện nghi) với tâm sinh lý, tình cảm người lao động và môi trường thiên nhiên khí hậu chung quanh. Chỉ khi nào các vấn đề trên được giải quyết một cách hài hoà, chúng ta mới có một giá trị thẩm mỹ đích thực trong môi trường sản xuất công nghiệp.
+ Những đặc điểm thẩm mỹ của kiến trúc công nghiệp hiện đại
Kiến trúc công nghiệp hiện đại đang phải đáp ứng nhiều nhu cầu mới và thay đổi nhanh chóng của xã hội, của kỹ thuật công nghệ, vì vậy, thẩm mỹ KTCN hiện đại phải đáp ứng được các yêu cầu đó. Những đặc điểm này biểu hiện dưới các khía cạnh sau: Hình khối đơn giản rõ ràng, phản ánh quá trình công nghiệp hoá xây dựng ; Thống nhất cao độ, sử dụng tối đa các cấu kiện, thiết kế điển hình ; Tỷ lệ, kích thước lớn, phản ánh yêu cầu về không gian linh hoạt; Hiệu quả thẩm mỹ kiến trúc trong sự kết hợp hài hoà với yếu tố kỹ thuật; Sử dụng các công trình lộ thiên, bán lộ thiên, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật dẫn đến các thay đổi cơ bản về hình thức công trình, cũng như tạo khả năng linh hoạt trong sản xuất; Vật liệu nhẹ tạo điều kiện linh hoạt trong thi công xây dựng và trong quá trình phát triển sản xuất; Sử dụng màu sắc là một yếu tố trang trí, bổ sung cho sự đa dạng, phong phú của công trình công nghiệp ; Hài hoà với thiên nhiên, coi thiên nhiên là một thành phần cấu thành quần thể kiến trúc XNCN, coi đó là một phương tiện bố cục thẩm mỹ kiến trúc và là giải pháp bảo vệ môi trường.
Trên cơ sở những đặc điểm thẩm mỹ của kiến trúc công nghiệp hiện đại, việc tổ chức cảnh quan kiến trúc các XNCN được tiến hành theo các yêu cầu thẩm mỹ hiện đại nhưng hài hoà với thiên nhiên. Một trong những vấn đề quan trọng nhất của việc tổ chức thẩm my môi trường KTCQ các XNCN là vấn đề xác lập không gian trống vói tư cách là không gian kiến trúc trong khu đất XNCN.

Đặc điểm trong đô thị mật độ xây dựng cao, tầm

Tuy nhiên, do vị trí quan trọng của các XNCN ngoại vi thành phố thường ở cửa ngõ vào thành phố, điều kiện thụ cảm thị giác thuận lợi ở nhiều hướng khác nhau, nên kiến trúc cảnh quan của XNCN có vai trò quan trọng trong việc tạo ấn tượng riêng cho đô thị thông qua hình dáng độc đáo của kiến trúc cảnh quan XNCN. Hình dáng chung của KTCQ xí nghiệp có thể gây ấn tượng mạnh, là điểm khống chế thị giác và định hướng không gian mạnh từ tầm nhìn xa đến gần như: cảnh quan kiến trúc nhìn hình dáng (seluet), toàn cảnh (panarama), và chi tiết. Nhìn ch nhìn, góc nhìn bị hạn chế, nên việc tổ chức cảnh quan cần xác định rõ các điểm khống chế thị giác, tính chất và đặc điểm của cảnh quan khu vực, để từ đó hình thành việc tổ chức cảnh quan kiến trúc trong XNCN, sao cho tạo được sự thống nhất giữa cảnh quan bên trong và ngoài XNCN. Nhiệm vụ chủ yếu của việc tổ chức cảnh quan XNCN là tạo được hình dáng của XNCN hài hoà với cảnh quan đô thị, do đó việc lựa chọn vị trí của không gian khu trước XNCN, kích thước, tỷ lệ, hình dáng của các công trình khu trước XNCN, có vai trò rất quan trọng.
Khung cảnh quan các XNCN ngoại vi thành phố cần đáp ứng yêu cầu kiên trúc và thẩm mỹ đô thị, xứng đáng vói vị trí ở cửa ngõ của thành phố.
+ Các xí nghiệp công nghiệp trong thành phố
Các xí nghiệp công nghiệp trong đô thị, thành phố có đặc điểm chịu ảnh hưởng mạnh của cảnh quan đô thị và phải tuân theo các yêu cầu của kiến trúc đô thị.
Do đặc điểm trong đô thị mật độ xây dựng cao, tầm
Trường hợp vị trí của XNCN nằm ngang bằng với khu dân cư đô thị, có thể xẩy ra bốn khả năng tiếp giáp XNCN với khu vực đô thị là: tiếp giáp từ Iĩiột phía ; từ hai phía ; từ ba phía ; và tiếp giáp cả bốn phía (nằm trọn vẹn trong một ô phố). Trong trường hợp XNCN tiếp giáp với khu vực đô thị từ hai hướng trở lên (thông qua các tuyến giao thông), cần phân biệt rõ vai trò chính I phụ của các tuyến giao thông về mặt quy hoạch cảnh quan kiến trúc đối với đô thị, từ đó xác định cấu trúc không gian kiến trúc cảnh quan tương ứng trong XNCN. Thực tế trong các XNCN thường tập trung nhiều hạng mục công trình, với nhiều khu vực chức nãng khác nhau. Tuy nhiên, trên phương diện cảnh quan, có thể chia làm hai khu vực chính là: Khu vực không gian phía trước xí nghiệp công nghiệp và khu vực không gian sản xuất. Khu vực không gian phía trước XNCN tập trung các hạng mục công trình có tỷ lệ hài hoà với con người và quy hoạch đồ thị (khu hành chính, sinh hoạt, thí nghiệm, vườn hoa, khu nghỉ…)* Khu vực không gian sản xuất, tập trung các hạng mục cồng trình có tỷ lệ, hình thức “xa lạ” với người dân đô thị (khu vực kỹ thuật, thiết bị kỹ thuật, sân bãi lộ thiên…). Trên cơ sở phân loại đó, nên tổ chức kiến trúc, cảnh quan XNCN trong thành phố theo nguyên tắc sau: đưa các khu vực và công trình có tỷ lệ, kích thước, chức năng của XNCN, giống hoặc gần giống với các công trình và khu vực chức năng đô thị ra phía ngoài tiếp giáp với trục giao thông đô thị, còn các khu vực kỹ thuật “xa lạ” với cảnh quan đô thị bố trí ở bên trong XNCN. Trường hợp không tổ chức được như vậy, nên sử dụng các dải cây xanh tập trung để cách ly khu vực đó khỏi tầm nhìn của người dân đô thị, không làm ảnh hưàng cảnh quan kiến trúc chung của khu vực.
Về mặt vệ sinh môi trường, các XNCN trong thành phố thuộc nhóm IV và V chỉ cách khu dân cư đô thị từ 50m đến 100m (Quy chuẩn xây dựng Việt Nam), khoảng cách này trong nhiều trường hợp chỉ tương ứng với lộ giới giao thông, do đó việc hạn chế lan truyền ô nhiễm giữa XNCN và khu dân cư phải được tiến hành bằng các giải pháp kết hợp đồng bộ (các biện pháp quy hoạch, kỹ thuật môi trường, công nghệ sản xuất…)» nhằm hạn chế tối đa các yếu tố bất lợi cho môi trường sống đô thị.
Khi vị trí XNCN ở thấp hơn so với khu dân cư đô thị: Trong trường hợp này, cảnh quan của khu công nghiệp hoặc XNCN được mở ra khi nhìn từ phía khu vực khu dân của đô thị. Từ tuyến đường bao chạy giữa XNCN với khu dân cư, tầm nhìn từ trên cao được mở rộng, cho phép nhìn sâu vào cảnh quan bên trong XNCN. Vì vậy nhiệm vụ chính về mặt tổ chức kiến trúc cảnh quan của XNCN là tạo ra được sự kết hợp thống nhất về tỷ lệ, hình khối giữa các không gian và hạng mục công trình trong xí nghiệp, tạo thành một bức tranh toàn cảnh (panorama) hài hoà với cảnh quan đô thị. Điểm khống chế thị giác nằm dọc theo mặt ngoài và trục quy hoạch chính vào tới khu vực giữa của XNCN. Đó cũng chính là các khu vực cần tập trung tổ chức cảnh quan có chất lượng thẩm mỹ cao, phù hợp yêu cầu quy hoạch đô thị.
Tuy nhiên, về mặt môi trường, vị trí của XNCN dễ gây bất lọi cho khu dân cư đô thị, hoặc có khả năng gây ra sự ngưng tụ bụi và khí độc ngay trong XNCN. Do đó khi chọn vị trí bố trí XNCN như trên, cần chú ý hướng gió chủ đạo và các biện pháp đồng bộ, hạn chế lan truyền ô nhiễm.

Xí nghiệp công nghiệp trong khu công nghiệp

Trong trường hợp không thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu đã nêu, cần lựa chọn yếu tố ảnh hưởng nhất để có giải pháp tập trung giải quyết. Các XNCN có yêu cầu vệ sinh công nghiệp cao, yêu cầu ngăn chặn bụi từ phía ngoài và sự tích bụi trong quá trình sản xuất, các biện pháp tổ chức cảnh quan thường tập trung tạo các khoảng cây xanh cách ly theo chu vi khu đất giữa các xí nghiệp với nhau và với khu dân cư. Diện tích cây xanh trong XNCN nên có quy mô, diện tích lớn han các XNCN bình thường khác. Các bề mặt cứng, nên sử dụng bằng các vật liệu không sinh bụi, đồng thời tổ chức thảm cỏ tại tất cả các bề mặt còn lại. Nên tổ chức nhiều loại hình thức mặt nước khác nhau trong xí nghiệp (hồ điều hoà, bể cảnh, mặt nước tự nhiên…), nhằm hạn chế sự lan truyền bụi, đồng thời tạo điều kiện vi khí hậu thuận lợi cho sản xuất và người lao động.
Đối vái các XNCN thuộc nhóm cuối cùng, không có những yếu tố đặc trưng ảnh hưởng tới việc tổ chức cảnh quan. Các XNCN thuộc loại này nên tổ chức cảnh quan theo các đặc điểm khu vực chức năng, có tính đến các yếu tố cảnh quan thiên nhiên và thẩm mỹ kiến trúc của khu vực.
Nhìn chung các đặc điểm sản xuất của XNCN ảnh hưởng nhiều đến việc lựa chọn đặc điểm hình thái và cơ cấu không gian trống trong xí nghiệp (không gian đóng, mở, nửa đóng hoặc kết hợp). Trên cơ sở đó trực tiếp ảnh hưởng đến các giải pháp tổ chức yếu tố tạo cảnh trong không gian (cây xanh, địa hình, mặt nước…). Đối với mỗi đặc điểm sản xuất khác nhau, yêu cầu các hình thức và giải pháp tổ chức KTCQ các XNCN tương ứng (hình III-4).
III.1.5. Vị trí của XNCN trong mối quan hệ với đô thị
Việc tổ chức KTCQ trong XNCN phụ thuộc nhiều vào vị trí của nó so với thành phố, vì cảnh quan của XNCN là một bộ phận của KTCQ đô thị. Đây là mối quan hệ về không gian kiến trúc giữa XNCN với cơ cấu không gian đô thị. Về mặt vị trí, các XNCN có thể nằm trong khu công nghiệp hoặc trong các khu vực tương quan với đô thị (nằm trong, ngoại vi, ngoài thành phố).
+ Xí nghiệp công nghiệp trong khu công nghiệp
Khi XNCN nằm trong khu công nghiệp, thì hệ thống không gian trống của XNCN sẽ là một bộ phận của cơ cấu không gian khu công nghiệp. Do đó việc tổ chức và hoàn thiện KTCQ của XNCN phụ thuộc chủ yếu vào yêu cầu chung của việc tổ chức và hoàn thiện KTCQ của tổng thể khu công nghiệp. Trong trường hợp này, mối quan hệ hài hoà giữa XNCN và các không gian khác của đô thị được thể hiện thông qua mối quan hệ về phương diện kiến trúc cảnh quan giữa khu công nghiệp và đô thị.
+ Vị trí xí nghiệp công nghiệp ở ngoài thành phố
Các XNCN tuỳ theo mức độ độc hại, có thể nằm trong thành phố, ngoại vi hoặc ngoài thành phố. Tuỳ theo mỗi vị trí xác định, cảnh quan của XNCN chịu sự tác động của hệ thống cảnh quan bên ngoài theo những đặc điểm riêng.
Đối với các XNCN nằm ngoài thành phố, cảnh quan thiên nhiên chiếm ưu thế, không gian trong xí nghiệp thường rộng, mật độ xây dựng không cao, tầm nhìn thoáng, không bị hạn chế. Những yếu tố tạo cảnh quan chủ yếu ở đây là địa hình, thảm thực vật, mặt nước, cần được khai thác hợp lý. Thực tế các công trình xây dựng ngoài thành phố thường chịu ảnh hưởng của cảnh quan rất đa dạng, phong phú, vì vậy các công trình thường được bố trí trên cơ sở các đặc điểm địa hình, tạo nên nhiều hình thức không gian trống đóng, mở linh hoạt dễ kết hợp với nhau và với cảnh quan bên ngoài trong một tổ chức không gian thống nhất. Việc tổ chức KTCQ của các XNCN ngoài thành phố chủ yếu phụ thuộc vào đặc điểm của cảnh quan khu đất xây dựng XNCN và công nghệ sản xuất. Ngoài ra các XNCN ngoài thành phố có nhiều thuận lợi cho việc thụ cảm thị giác từ nhiều khoảng cách với tốc độ dịch chuyển khác nhau. Hiện nay việc tổ chức cảnh quan kiến trúc các XNCN hiện đại trên thế giới được tiến hành theo bốn xu hướng chính, trên cơ sở bảo vệ và làm phong phú thêm môi trường tự nhiên. Bốn xu hướng đó là: xu hướng giữ lại nguyên vẹn cảnh quan tự nhiên ; xu hướng nhấn mạnh tính chất đặc điểm độc đáo của cảnh quan tự nhiên ; xu hướng làm thay đổi một phần tính chất của cảnh quan tự nhiên ; xu hướng tạo cảnh quan nhân tạo mới (trong trường hợp đối với khu vực có cảnh quan thiên nhiên nghèo nàn, đơn điệu…).
+ Các xí nghiệp công nghiệp nằm ở ngoại vi thành phố
Việc tổ chức kiến trúc cảnh quan XNCN chịu sự ảnh hưởng của cảnh quan thiên nhiên và đồ thị. Tuy nhiên đối với các XNCN nằm ở ngoại vi, cách ly với đô thị bằng khoảng cách bảo vệ vệ sinh công nghiệp, cảnh quan ít bị phụ thuộc vào cảnh quan đô thị hơn. Đối với các XNCN kề liền đô thị (ngoại vi đô thị), cảnh quan khu vực trước XNCN bị ảnh hưởng của cảnh quan đồ thị, còn cảnh quan không gian bên trong và ờ các hướng không tiếp giáp với đô thị được tổ chức tự do hơn, chủ yếu trên cơ sở địa hình tự nhiên và khả năng cho phép của công nghệ.
Chia sẻ :
Các tin khác

0 nhận xét :

Đăng nhận xét

Tin cho thuê mới

Lời khuyên

Hỏi - Ðáp

TƯ VẤN NỘI - NGOẠI THẤT

Tư vấn nội - ngoại thất từ chuyên gia
xuongchothue.com


Seo Blogspot, kho xưởng ; mua Seo Blogspot xưởng, mua Seo Blogspot đất; cho thuê chung cư, căn hộ,...
Xuongchothue.com 1.000.000 tin mua bán và Seo Blogspot, kho xưởng, Seo Blogspot tại Việt Nam. Chúng tôi liệt kê danh sách nhiều thông tin Seo Blogspot nhất phục vụ mọi nhu cầu, từ phòng trọ tới biệt thự cao cấp. Bạn là nhà đầu tư hay gia đình cần nhà để ở? xuongchothue.com đều có thể giúp bạn. Tìm tin Seo Blogspot đất hoặc cho thuê Seo Blogspot mới nhất bằng cách sử dụng công cụ tìm kiếm hoặc các đường link ngay trên trang chủ.
 

Powered By Khám Phá Blog's