Home » »

Ô nhiễm có tác hại làm tăng nhiệt độ môi trường

Ô nhiễm có tác hại làm tăng nhiệt độ môi trường, tăng bệnh nghề nghiệp, suy giảm sức khoẻ của người dân, ảnh hưởng xấu tới sự sinh trưởng của động thực vật, làm giảm độ bền của vật liệu, kết cấu…, từ đó tác động xấu tới kinh tế. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường trong XNCN do từ nguồn ô nhiễm thiên nhiên và nguồn ô nhiễm nhân tạo. Nguồn ô nhiễm thiên nhiên là do các hiện tượng thiên nhiên gây ra, chủ yếu do quá trình thối rữa động, thực vật, nguồn này trong các xí nghiệp không lớn. Nguồn ô nhiễm nhân tạo là do các hoạt động của con người gây ra. Có thể kể đến các nguồn ô nhiễm nhân tạo trong XNCN như : Ô nhiễm do giao thông ; ô nhiễm do rò rỉ, bốc hơi, thất thoát các chất độc hại trong quá trình sản xuất; Ô nhiễm do các nguồn thải (ống khói, các miệng thổi…); Nguồn thải từ các thiết bị sản xuất không kín ; Ô nhiễm do điều kiện giữ vệ sinh trong xí nghiệp kém (bãi rác- chất thải cứng công nghiệp, rác sinh hoạt, các bãi vật liệu rời V-V…)- Quá trình ô nhiễm trong XNCN được khuếch tán đi xa, gây ảnh hưởng xấu tới người lao động, môi trường trong xí nghiệp công nghiệp và con người, cảnh quan khu vực chung quanh.
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự khuếch tán ô nhiễm bao gồm gió, nhiệt độ, độ ẩm… ngoài ra sự phân bố chất ô nhiễm còn chịu ảnh hường của địa hình, cua nhà và công trình. Từ những phân tích trên cho thấy các tác động của hệ thông không gian trống trong xí nghiệp, ảnh hưởng rất lớn tới quá trình khuếch tán ô nhiễm hoặc hạn chế quá trình đó. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân chủ yếu gây sự khuếch tán ô nhiễm là gió, trong khi đó thông gió lại là vấn đề quan trọng của kiến trúc nhiệt đới, vì vậy, hạn chế khuếch tán ô nhiễm có nghĩa là giảm hoặc triệt tiêu tốc độ gió trong không gian. Đây là một vấn đề mâu thuẫn mà các giải pháp tổ chức KTCQ phải giải quyết (hình ni-4).
Các XNCN thải nhiều chất độc hại (các XNCN nhẹ có sử dụng hoá chất trong công nghệ sản xuất – sản phẩm da, nhuộm…) ; Các XNCN thải nhiều bụi (sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí nhẹ…); Các XNCN thải mùi khó chịu (chế biến thực phẩm, thuộc da…); Các XNCNS đồng thời thải nhiều loại độc hại khác nhau (cơ khí…) ; Các XNCN yêu cầu vệ sinh caò (chế biến thực phẩm, điện tử…) ; Các XNCN trong sản xuất không sinh độc hại (dệt, sợi…)-Việc phân loại các XNCN theo cấc đặc điểm gây ô nhiễm, cho phép tổ chức không gian, cảnh quan trong XNCN phù hợp với những đặc điểm riêng của xí nghiệp.
Với các XNCN ở nhóm thứ nhất (độc hại), không gian sản xuất yêu cầu phải thoáng, thông gió tốt để hạn chế quá trình tích tụ độc hại trong các khu vực XNCN, do đó việc tổ chức cảnh quan kiến trúc trong XNCN cần đảm bảo tốt khả năng thông gió lãnh thổ. Trong xí nghiệp, các không gian cần mở ra bên ngoài, hạn chế các khu vực gió quẩn. Việc tổ chức cây xanh sao cho không cản trở thông gió và có tác dụng tạo hành lang dẫn gió vào các khu vực trong XN. Các mặt lát tại các khu vực thải nhiều độc hại, cần có khả năng hấp thụ nhiệt cao để có thể tạo sự bốc hơi chất độc hại theo phương đứng, tạo khả năng phân tán trên cao.
Hạn chế tổ chức mặt nước trong XNCN loại này, nhằm hạn chế các phản ứng hoá học có thể xẩy ra khi độ ẩm môi trường cao. Các không gian có yêu cầu thẩm mỹ cao trong xí nghiệp nên bố trí tại các khu vực tập trung đông công nhân và ở xa các khu độc hại.
Các XNCN thải nhiều bụi bẩn, việc tổ chức không gian trong xí nghiệp sao cho hạn chế tối đa sự lan truyền bụi. Cảnh quan kiến trúc trong các XNCN thường tạo ra các không gian cây xanh – màn chắn tập trung ở gần các nguồn bụi, phía đầu hướng gió chủ đạo, hoặc bố trí các nguồn bụi ở vị trí địa hình thấp hơn các khu vực khác. Các không gian trống chưa sử dụng được trồng cỏ tới mức tối đa để hạn chế lan truyền bụi. Các khu vực cảnh quan có yêu cầu thẩm mỹ cao, được bố trí ở đầu hướng gió.
Các XNCN gây ồn, việc tổ chức phân khu được tiến hành theo mức ồn. Các khu vực yên tĩnh cần cách xa nguồn ồn tối thiểu 40 đến 45m, kết hợp sử dụng màn chắn âm bằng cây xanh, tường chắn, công trình, địa hình… Để tạo hiệu quả chống ồn tốt, các nguồn ồn cần bố trí cuối hướng gió và hệ thống cây xanh nên bố trí gần các nguồn ồn. Màn chắn cây xanh bố trí sao cho có khả năng hạn chế tối đa tiếng ồn của các phương tiện giao thông, của sản xuất, lên tường nhà hoặc các bề mặt.
Các XNCN gây mùi khó chịu, việc tổ chức cảnh quan chủ yếu nhằm cách ly nguồn gây mùi và tạo khả năng thông gió lãnh thổ. Hạn chế tối đa các khu vực gió quẩn. Các biện pháp chủ yếu được sử dụng là trồng cây xanh cách ly theo chu vi của xí nghiệp. Trong khu vực xí nghiệp tổ chức các thảm cỏ rộng, phía trên bố trí cây xanh độc lập hoặc theo cụm, kiểu tự do, không cản trở khả năng thông gió. Các không gian nghỉ không nên bố trí vào các khu vực bóng khí động. Các XNCN cùng lúc thải nhiêu loại độc hại như: hơi độc, bụi, ồn… một mặt có thể sử dụng các biện pháp tổng hợp đã nêu trên, mặt khác cần tìm giải pháp có hiệu quả để thoả mãn được tất cả những yêu cầu của vệ sinh công nghiệp.

Đặc điểm chức năng công nghệ sản xuất

111.1.4. Đặc điểm chức năng công nghệ sản xuất
Trong XNCN, không gian kiến trúc được hình thành chủ yếu trên cơ sở các đặc điểm công nghệ sản xuất và những yêu cầu tâm sinh lý của người lao động. Sự khác biệt cơ bản giữa không gian kiến trúc trong các XNCN với các loại hình không gian kiến trúc khác chính là ở sự có mặt trong không gian XNCN các thiết bị máy móc sản xuất và các đặc điểm công nghệ sản xuất, đôi khi các yếu tố này có quy mô kích thước và những đặc điểm khác lấn át tỷ lệ của con người hoặc có hình dạng khác thường, có khả năng gây những ấn tượng phản cảm đối với người dân đô thị. Giải quyết sự thống nhất, hài hoà những mâu thuẫn trên cũng chính là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của thiết kế kiến trúc cảnh quan trong XNCN.
+ Phương pháp công nghệ
Phương pháp công nghệ thể hiện những đặc trưng cơ bản các đặc điểm sản xuất của từng công đoạn trong dây chuyền hay toàn bộ dãy chuyền sản xuất, qua đó ảnh hưởng tới chế độ vệ sinh công nghiệp, nên ảnh hưởng nhiều tới việc tổ chức hoàn thiện thẩm mỹ môi trường KTCQ của XNCN.
Phương pháp công nghệ một mạt ảnh hưởng tới việc lựa chọn các giải pháp tổ chức mặt bằng kiến trúc quần thể công trình, ảnh hưởng trực tiếp lên hình thức không gian trống, mặt khác trong quá trình hoàn thiện KTCQ của XNCN, nếu những ảnh hưởng do phương pháp công nghệ gây ra được coi trọng và tìm cách hạn chế, thì các giải pháp tổ chức KTCQ cũng được thay đổi theo.
+ Dây chuyền sản xuất
Là sự liên tục của các công đoạn sản xuất theo một trình tự khoa học và hợp lý. Đây là một trong những cơ sở quan trọng hàng đầu để tổ chức tổng mặt bằng XNCN. Chúng ảnh hưởng nhiều tới khả năng tổ chức mặt bằng – không gian quần thể công trình và hình khối công trình, do đó, chúng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các giải pháp tổ chức KTCQ của XNCN. Có thể chia dây chuyền sản xuất làm hai loại:
-  Dây chuyền sản xuất có khả năng linh hoạt (chủ yếu là các XNCN nhẹ):
Loại này cho phép có sự thay đổi trong một giới hạn nào đó việc sắp xếp thứ tự các công đoạn hoặc đường, hướng công nghệ (từ đường thẳng thành chữ u, L và T…, tạo những mặt bằng nhà đơn giản hình chữ nhật thành các mặt bằng phức tạp hơn). Với những công nghệ thuộc loại này, việc lựa chọn các giải pháp tổ chức KTCQ sẽ đa dạng và phong phú hơn ;
-  Dây chuyền sản xuất ít có khả năng thay đổi (thường là các XNCN nặng):
Đối với công nghệ sản xuất thuộc loại này, việc tổ chức các không gian sản xuất hoàn toàn phải tuân theo các yêu cầu nghiêm ngặt của công nghệ, vì vậy, các giải pháp tổ chức KTCQ thường bị hạn chế, đồng thời những thiết bị công nghệ sẽ có vai trò rất quan trọng trong bố cục thẩm mỹ của cảnh quan XNCN, chúng sẽ là những yếu tố quan trọng để hình thành cảnh quan sản xuất.
+ Nguyên tắc hoàn thành sản phẩm
Nguyên tắc hoàn thành sản phẩm đặc trưng bởi khả năng tổ chức sản xuất, nên chúng có ảnh hưởng rất tốt tới sự hình thành đặc điểm KTCQ của xí nghiệp công nghiệp.
Nếu sản xuất theo nguyên tắc đơn lẻ hoặc seri, các nhà sản xuất thường phân tán, có nhiều nhà phụ trợ sản xuất, các hệ thống kho trung gian kèm theo, do đó sẽ dẫn đến tổng mặt bằng phân tán, mật độ xây dựng không cao, không gian trống phân tán với nhiều hình thái đa dạng, ảnh hưởng nhiều tới lựa chọn các giải pháp tổ chức KTCQ của XNCN. Ngoài ra do số lượng các hạng mục công trình tương đối nhiều, nhưng quy mô không lớn, sẽ ảnh hưởng tói tổ hợp hình khối kiến trúc của công trình và không gian quần thể công trình;
Nếu các công nghệ sản xuất được thực hiện theo dây chuyền liên tục, hệ thống các kho trung gian được loại bỏ, các khu vực chức năng có thể bố trí chặt chẽ hơn, thậm chí có thể trong cùng một nhà. Khả năng này dẫn đến việc tổ chức tổng mặt bằng của xí nghiệp có thể bố trí tập trung hơn, làm giảm số lượng hạng mục các công trình, nâng cao mật độ xây dựng, không gian trống tập trung, rút ngắn hệ thống giao thông và đảm bảo kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ hợp hình khối công trình có quy mô lớn và phong phú thuận lợi cho việc đầu tư đồng bộ vào việc tổ chức KTCQ của XNCN.
+ Đặc điểm sản xuất và ô nhiễm công nghiệp
Trong những năm gần đây, do sự xuất hiện của nhiều công nghệ sản xuất mới, hiện đại, nhiều ngành công nghiệp nhẹ đã sử dụng nhiều chất hoá học có mức độc hại cao, mặc dù số lượng sử dụng không nhiều (xí nghiệp đóng giày, vật liệu xây dựng, cơ khí nhẹ…). Vì vậy việc hoàn thiện môi trường KTCQ trong các XNCN hiện đại ngày càng đóng một vai trò quan trọng không chỉ cho việc tạo một môi trường thuận lợi cho sản xuất, mà còn phải hạn chế các hậu quả tiêu cực đối với sức khoẻ và tâm sinh lý người lao động. Tuỳ theo mức độ ô nhiễm, các XNCN được chia thành các loại sạch, bẩn khác nhau:
Các xí nghiệp công nghiệp loại bẩn là các XNCN sinh ô nhiễm, độc hại cho môi trường và con người. Có thể nói “ô nhiễm môi trường là một vấn đề tổng hợp, được xác định bằng sự biến đổi môi trường theo hướng không tiện nghi, bất lợi đối với cuộc sống của con người, của động thực vật, mà lại chính do hoạt động của con người gây ra vói quy mô, phương thức và mức độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi mô hình, thành phần hoá học, tính chất vật lý và sinh học của môi trường không khí” [1].

Địa hình tự nhiên

Việt Nam là một nước nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm nên mưa nhiều, đo đó việc tổ chức tiện nghi trong xí nghiệp cố vai trò quan trọng nhằm đảm bảo an toàn và tiện nghi trong sử dụng. Điều đó được phản ánh thông qua các giải pháp hoàn thiện địa hình, chống trơn trượt, sạt lở và các hình thức kiến trúc, kết cấu thoáng hở chống mưa, nắng…
+ Địa hình tự nhiên
Địa hình tự nhiên một mặt là những yếu tố có khả năng tạo ra sự thay đổi về khí hậu, mặt khác lại là các yếu tố ảnh hưởng lớn tới các giải pháp tổ chức cảnh quan kiến trúc. Địa hình tự nhiên có thể cao, thấp, bằng phẳng như núi, đồng bằng, sông hồ, cây xanh, hình dạng, kích thước khu đất xây dựng, độ dốc khu đất, cảnh quan thiên nhiên chung quanh là những yếu tố thiên nhiên sẵn có từ trước, nằm trong hệ thống cảnh quan chung. Việc thay đổi, khai thác sử dụng cần dựa trên các cơ sở về thẩm mỹ, kinh tế, môi trường, do đó việc tổ chức KTCQ trong XNCN không thể tiến hành một cách tuỳ tiện
Nếu khu vực xây dựng XNCN có cảnh quan phong phú, đa dạng, các giải pháp tổ chức KTCQ nên sử dụng và khai thác hợp lý các yếu tố đó, hạn chế can thiệp, huỷ hoại môi trường ở mức tối đa. Trường hợp ngược lại, với môi trường cảnh quan khu vực xây dựng không thuận lợi, các giải pháp tổ chức KTCQ có thể giúp cải tạo không chỉ chất lượng thẩm mỹ XNCN mà cả môi trường sinh thái chung quanh cho người lao động. Thực tế tổ chức cảnh quan kiến trúc ờ nhiều nước cho thấy có 4 xu hướng tổ chức KTCQ phụ thuộc vào địa hình như sau: Hài hoà với thiên nhiên ; Nhấn mạnh tính chất cảnh quan tự nhiên. Thay đổi một phần tính chất cảnh quan tự nhiên ; Tạo cảnh quan mới. Có thể nói chính các đặc điểm địa hình tự nhiên là một trong những yếu tố quan trọng để người làm công tác thiết kế kiến trúc đưa ra các giải pháp định hướng hợp lý, (hình III-3). Đối với địa hình đồng bằng, tương đối bằng phẳng, tầm nhìn thoáng do đó thường chỉ có các góc nhìn ngang, việc tổ chức bố cục các công trình và yếu tố tạo cảnh có thể đóng, mở linh hoạt để che chắn hay nhấn mạnh các đặc điểm thẩm mỹ của hình khối không gian quần thể các công trình của XNCN. Đối với địa hình kiểu này, hình dáng (seluet) của XNCN và không gian khu vực trước xí nghiệp CÓ vai trò quan trọng trong tổ chức kiến trúc cảnh quan và tạo điều kiện thuận lợi để liên kết với cảnh quan kiến trúc bên ngoài XNCN.
Về mặt vi khí hậu, đối với vùng đồng bằng, các ảnh hưởng ồ nhiễm lan chuyền chủ yếu theo hướng gió chủ đạo, nên tác động tới việc lựa chọn các giải pháp tổ chức không gian trong XNCN theo hướng hạn chế và cách ly các khu vực sản xuất gây ô nhiễm tại nguồn.
Địa hình đồi núi: có cảnh quan đa dạng, góc nhìn có khả năng thay đổi (nhìn ngang, nhìn đứng, nhìn xiên, nhìn từ dưới lên, từ trên xuống…) do đó cảnh quan thay đổi rất phong phú. Tuỳ theo đặc điểm của địa hình cụ thể để lựa chọn giải pháp tổ chức KTCQ của XNCN một cách thích hợp.
Nếu XNCN bố trí trên cao, tại các điểm khống chế thị giác trong không gian, hình dáng chung (seluet) của xí nghiệp có vai trò quan trọng trong sự hình thành ehất lượrig thẩm mỹ khu vực, vì nó có thể được quan sát thấy từ xa và từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Nếu XNCN bố trí dưới thung lũng, toàn bộ không gian trong XNCN có thể được quan sát trong tầm nhìn, đo đó các giải pháp tổ chức hình khối tổng thể quần thể công trình đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành chất lượng thẩm mỹ của XNCN.
Tuy nhiên về phương diện vi khí hậu, các hướng gió chủ đạo tại địa phương có vai trò quan trọng trong việc hình thành cơ cấu không gian trong XNCN và sự lan truyền ô nhiễm ra môi trường chung quanh (ví dụ đối với các XNCN bố trí dưới thung lũng, cần chú ý tái hướng gió hình thành giữa các khe núi…).
Mặt nước là một dạng địa hình đặc biệt, có ảnh hưởng rất lớn tới việc tổ chức và hoàn thiện KTCQ của các XNCN. Mặt nước tạo ra một không gian thoáng, thuận tiện cho việc thụ cảm cảnh quan của xí nghiệp từ xa, thích hợp với việc tạo hình dáng chung của tổng thể XNCN kiểu (seluet), ngoài ra các không gian chủ đạo, có nhu cầu cao về chất lượng thẩm mỹ thường mở ra hướng mặt nước, lấy không gian mặt nước làm bố cục chủ đạo cho việc tổ chức cảnh quan xí nghiệp.
+ Địa hình nhân tạo
Địa hình nhân tạo thường thấy ở các khu đô thị, được hình thành bởi các công trình xây dựng của con người. Khi các XNCN bố trí trong khu vực đô thị, các yếu tố địa hình nhân tạo sẽ có những ảnh hưởng lớn đến sự hình thành cơ cấu không gian và hình khối kiến trúc quần thể công trình trong XNCN. Trường hợp này, việc tổ chức KTCQ của XNCN phụ thuộc rất nhiều vào “cảnh quan nhân tạo ban đầu” là những công trình và hộ thống giao thông đã tồn tại trước đó. Ngoài ra việc tổ chức KTCQ các XNCN trong đô thị còn phải tuân theo các yêu cầu của quy hoạch đô thị, nhằm đạt được sự hài hoà, thống nhất giữa cảnh quan của XNCN với cảnh quan đô thị trong một cơ cấu cảnh quan kiến trúc thống nhất, hài hoà. Nhìn chung, tuỳ theo địa hình cụ thể mà việc tổ chức không gian và bố trí các công trình kiến trúc sẽ khác nhau, trên cơ sở khai thác các tính chất của địa hình đó. Việc tổ chức các công trình trên cơ sở địa hình sẵn có cũng sẽ tạo ra nhiều không gian trống trong XNCN có hình thức đa dạng khác nhau, cho phép sử dụng các yếu tố cảnh quan tự nhiên và nhân tạo ban đầu đã có một cách hợp lý.

Đặc điểm thiên nhiên khí hậu địa phương

trong tác phẩm “Kiến trúc đối với môi trường lao động” của tác giả Degenhard Sommer và cộng sự (Austria) “Các XNCN được thiết kế tốt, trở thành người đồng hành trong kinh doanh, vì có khá năng hấp dẫn và giữ các công nhân lành nghề. Các thiết kế tối của XNCN còn đóng góp vào hình ảnh chung của công ty, do đó kiến trúc tốt không phải chỉ là sự tăng chi phí, mà còn là khả năng nhanh chóng hoàn trả vốn đầu tư” [28], Đối với lĩnh vực kiến trúc công nghiệp có thể thấy tính cạnh tranh được thể hiện rõ nét ở 3 vấn đề sau:
-  Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm thông qua hình thức thẩm mỹ và quảng cáo, thể hiện ở vẻ đẹp của hình thức kiến trúc XNCN trong cảnh quan đô thị;
-  Cạnh tranh về mặt chất lượng của môi trường lao động: thể hiện qua sự quan tâm tới các yếu tô vật chất, tinh thần của người lao động trong XNCN ;
-  Cạnh tranh về công nghệ sản xuất: sự thay đổi công nghệ sản xuất luôn kéo theo sự thay đổi của các giải pháp tổ chức KTCQ, vì một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới tổ chức KTCQ là các đặc điểm công nghệ sản xuất.
  1. 1.3. Đặc điểm thiên nhiên khí hậu địa phương
+ Đặc điểm khí hậu:
Với nhiều loại địa hình khác nhau (vùng biển, đồng bằng, rừng núi), nên cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái tự nhiên rất đa dạng và phong phú. Khí hậu thường bị biến đổi tuỳ theo các đặc điểm của địa hình. Sự thay đổi của các yếu tố khí hậu lại có những ảnh hưởng rất mạnh mẽ lên các giải pháp thiết kế kiến trúc công trình và con người dưới nhiều hình thức đa dạng, vì vậy để giải quyết tốt vấn đề tổ chức KTCQ cần nghiên cứu những đặc điểm cụ thể của khí hậu mỗi vùng, khu vực khác nhau. Ví dụ, Việt Nam nằm vào vị trí khá đặc biệt của vùng Đông Nam châu Á, khí hậu Việt Nam chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa châu Á và chế độ hoàn lưu cực đới từ Xibêri tràn về, vì vậy ở miền Bắc (từ vĩ độ 16°) trở ra có mùa đông lạnh hơn nhiều so với các khu vực khác có cùng vĩ tuyến. Nhìn chung khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm, với nhiều vùng khí hậu riêng biệt.
Từ các số liệu đo đạc, cho thấy đặc điểm cơ bản của khí hậu Việt Nam là nóng, ẩm, do đó ảnh hưởng tới các giải pháp thiết kế kiến trúc công trình và tổ chức môi trường KTCQ theo hướng đáp ứng yêu cầu tiện nghi vi khí hậu đối với con người thông qua việc tạo lập vùng tiện nghi nhiệt.
Có một số phương pháp xác định vùng tiện nghi vi khí hậu. Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu cảm giác nhiệt của con người trong điều kiện khí hậu Việt Nam. Một trong những kết quả nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề này là của tiến sĩ Phạm Ngọc Đăng cho đối tượng lao động nhẹ (Vật lý xây dựng, tập 2). Từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy tiện nghi nhiệt đối với người Việt Nam trong điều kiện lao động nhẹ như sau: nhiệt độ t = 24 -ỉ- 25°c, độ ẩm (p = 80%, vận tốc gió V10,5m/s. Tuy nhiên, trong thực tế các thông sô trên cò thể thay đổi cùng nhau, làm cho tiện nghi nhiệt vẫn có thể được đáp ứng (ví dụ khi nhiệt độ không khí tăng lên, thì độ ẩm cần phải giảm và tốc độ gió cần được tăng, để có thể không làm biến động nhiều tới vùng tiện nghi nhiệt). Qua các phân tích trên cho thấy các giải pháp tổ chức kiến trúc cảnh quan các XNCN trong điều kiện nóng ẩm cần chú ý tới các biện pháp thông gió, tránh bức xạ là chủ yếu. Không gian kiến trúc ngoài công trình cần thoáng, hở, hài hoà với thiên nhiên, nhằm chủ yếu đáp ứng các yêu cầụ chống nóng, ẩm của khí hậu gây ra đối với con người, đặc biệt là đối với không gian sản xuất phải giải quyết mâu thuẫn, vừa phải đáp ứng nhu cầu thông gió lãnh thổ vừa phải hạn chế sự phát tán các chất ô nhiễm. Thực tế cho thấy cần giải quyết vấn đề trên bằng cách kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp ngay từ quá trình thiết kế kiến trúc xí nghiệp công nghiệp. Nhìn chung các đặc điểm khí hậu có ảnh hưởng sâu, rộng tới các giải pháp tổ chức và hoàn thiện môi trường kiến trúc cảnh quan của XNCN theo các hướng sau:
-   Không gian trống trong XNCN có hình thái đóng, mở hoặc kết hợp một cách linh hoạt tuỳ theo yêu cầu chống nóng, thông gió hay chống lạnh đối với các vùng khí hậu khác nhau. Ví dụ đối với các XNCN nằm ở khu vực khí hậu có yêu cầu chống gió lạnh về mùa đông và nhận gió mát về mùa hè, còn ở một số vùng khác, các giải pháp tổ chức không gian lại thiên về việc chống nóng, đón gió mát.
-   Hướng gió mát chủ đạo của từng khu vực ảnh hưởng đến các giải pháp tổ chức các yếu tố tạo cảnh quan thiên nhiên và nhân tạo trong lòng không gian trống của XNCN.
-   Do khí hậu của các khu vực về mùa hè chủ yếu rất nóng, trực xạ cao, do đó việc đưa ra các giải pháp hạn chế tối đa bức xạ về mùa hè là cần thiết. Yếu tố đó đã ảnh hưởng đến sự lựa chọn tỷ lệ cơ cấu cầy xanh trong XNCN (cây cảnh, cây bóng mát…), và sự lựa chọn vật liệu che phủ bề mặt địa hình trong không gian trống theo hướng hạn chế bức xạ…
-  Đường biểu kiến của mặt trời ảnh hưởng đến việc tổ chức hình khối công trình, bố trí công trình, tổ chức giao thông và cây xanh trong XNCN.

Các điều kiện kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn tới công tác tổ chức kiến trúc cảnh quan

sử dụng mặt nước như bể cảnh, ao cá để làm dịu mát không khí, các loại cây cảnh, hoa, non bộ mang tính chất trang trí, nâng cao chất lượng thẩm mỹ công trình… Phía sau nhà là hướng Bắc, do đố các ioại cây xanh thường cố ỉhân thấp lá dày để cản giố lạnh mùa đông (chuối, các loại cây ăn quả…). Đối với các vùng nhíểu cát, bụi, phía trước của công trình thường trổng các loại cây cố khả nâng chống lại bụi theo gió dem vào như các loại phi lao, thông…
Qua những ví dụ trên cho thấy kiến trúc truyền thống dã sử dụng một cách rất có hiệu quả dể giải quyết các vấn đề vé thẩm mỹ và tiện nghi cho con người thông qua các giải pháp tổ chức các yếu tố tạo cảnh trong không gian trống.
111.1.2. Điều kiện kinh tế – kỹ thuật + Khả năng đầu tư tài chính
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản và phát triển kinh tế rất đa dạng, từ nhiều nguồn khác nhau. Cùng với nguồn vốn da dạng, có một vấn đề không kém quan trọng là chúng ta được học hỏi và nâng cao trình dô trong công tác sử dụng và quản lý vốn một cách cố hiệu quả cho dầu tư xây dựng cổng nghiệp, tạo điểu kiện tốt cho nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phát triển nhanh chóng.
-        Trường hợp vốn đầu tư ít, để tàng hiệu quả đầu tư, các giải pháp tổ chức KTCQ cần mang tính trọng tâm, không dàn trải, đồng thời tiến hành phân chia các giai đoạn thực hiện thống nhất với giải pháp thiết kế tổng mặt bằng của XNCN.
- Trường hợp vốn đẩu tư trung bình có thể tiến hành đồng bộ việc tổ chức KTCQ trong toàn XNCN, nhưng phân chia các giai đoạn đầu tư tập trung, nâng cao chất lượng của kiến trúc cảnh quan;
-        Trường hợp vốn đầu tư nhiều, có thể tiến hành đồng bộ việc tổ chức và hoàn thiện KTCQ trên mọi mặt thẩm mỹ, tiện nghi, môi trường.v.v…
Nhìn chung tính kinh tế trong việc tổ chức kiến trúc cảnh quan các XNCN được biểu hiện bởi hai khía cạnh: chi phí tính được và chi phí không tính được.
Các chi phí tính được có thể tính toán thông qua các khả năng đầu tư (ít, trung bình, nhiều), phương pháp thiết kế, thi cồng và khả năng cung ứng các chủng loại vật tư xây dựng.
Các chi phí không tính được (không nhìn thấy hoặc rất khó đo lường) như những gì mà các chi phí quảng cáo đem lại cho doanh nghiệp, các điều kiện tiện nghi trong môi trường lao động kích thích sản xuất và chất lượng sản phẩm, và cả sự trả giá của nền kinh tế quốc dân đối với những hậu quả do ô nhiễm môi trường của các XNCN gây ra đối với sự mất cân bằng sinh thái. Ngày nay các chi phí cho những yếu tô kinh tế không tính được đã được nhiều nhà doanh nghiệp hàng đầu nhận thấy rõ. Không có lý do gì cản trở để một nhà doanh nghiệp sẵn sàng chi phí từ 30-35% lợi nhuận trong kinh doanh vào việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng lại không thể đầu tư quảng cáo cho chính những XNCN đang làm ra những sản phẩm đó. Do đó có thể hiểu toàn bộ các giải pháp tổ chức nâng cao chất lượng thẩm mỹ và tiện nghi cho XNCN là những đầu tư có khả năng đem lại những lợi nhuận không thể tính được cụ thể và ngay trong thời gian ngắn, song rất cần thiết cho sự cạnh tranh và tự khẳng định mình của xí nghiệp.
Qua phân tích trên có thể thấy tính kinh tế đúng đắn trong xây dựng công nghiệp không chỉ là nhằm mục đích xây dựng rẻ nhất, đơn giản nhất, mà là những lợi ỉch chung do nó đem lại cho cộng đồng và cho doanh nghiệp (hình II-l).
+ Điều kiện kỹ thuật
Cùng với sự có mặt của đầu tư nước ngoài, công nghệ xây dựng tiên tiến, kết cấu và vật liệu xây dựng mới, những quan điểm, lý luận tiên tiến 1 khoa học trong thiết kế kiến trúc các XNCN của các nước phát triển cũng được sử dụng và có điều kiện thuận lợi phát triển nhanh chóng trên mọi miền đất nước. Chúng là những cơ sở tạo thuận lợi cho công tác tổ chức KTCQ trong các xí nghiệp công nghiệp ở Việt Nam.
Các điều kiện kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn tới công tác tổ chức KTCQ như sau:
-  Hình thức kiến trúc công trình và tổ chức quần thể công trình phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kỹ thuật, vì kỹ thuật chính là phương tiện để biểu đạt kiến trúc ;
-  Tổ chức kiến trúc cảnh quan của XNCN phụ thuộc nhiều vào yêu cầu vệ sinh công nghiệp đối với sản xuất và mức độ “sạch” của công nghệ ;
Có thể coi các điều kiện kỹ thuật mới, hiện đại là cơ sở vật chất nhân tạo có ảnh hưởng lớn đối với công tác tổ chức KTCQ các xí nghiệp công nghiệp hiện đại.
+ Cạnh tranh trong kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề cạnh tranh về chất lượng giữa các XNCN là một yếu tố vô cùng quan trọng, mang tính chất quyết định khả năng tồn tại hay không của một xí nghiệp. Với sự cạnh tranh gay gắt, nên yêu cẩu về chất lượng sản phẩm đòi hỏi ngày một cao, thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến thay đổi nhanh chóng. Do đó lực lượng lao động có trình độ đòi hỏi ngày càng cao, nên vai trò của người lao động yêu cầu phải được đánh giá đúng mức. Môi trường lao động có thẩm mỹ và tiện nghi cho người lao động, không đơn giản chỉ là yêu cầu nhân đạo đối với quyền con người, mà còn là mục đích kinh tế trong kinh doanh của các XNCN. Điều này đã được khẳng định

Không gian nửa đóng

Trong lao động hay sinh hoạt, con người luôn có xu hướng gần gũi với thiên nhiên, cảm nhận cái đẹp cũng như sự tiện nghi thông qua môi trường thiên nhiên đỏ. Vì vậy, có thể nội trong mọi môi trường hoạt động của mình, con người không bao giờ muốn bị tách ra khối các yếu tố thiên nhiên quen thuộc của mình (trong thời kỳ hiện đại, con người phải sống trong các nhà cao tầng, thì họ cũng cố tạo cho mình một khoảnh thiên nhiên nhỏ bên cạnh mình, thậm chí ngay trong phòng ở).
Kiến trúc truyền thống thường rất gắn bó với phong cảnh thiên nhiên, nên các công trình kiên trúc dân tộc thường sử dụng thiên nhiên để tôn tạo cho mình và ngược lại lấy kiến trúc tô điểm cho thiên nhiên. Ở những vị trí xây dựng không có sẵn cảnh quan thiên nhiên đẹp, kiến trúc dân tộc thường tự tạo ra ao, hồ, núi, trồng cây… Nếu cảnh quan đã có sẵn, phong phú, kiến trúc dân tộc được xây dựng theo nguyên tắc hoà đồng với cảnh quan đó.
Những nguyện tắc lựa chọn địa điểm xây dựng, hoặc tự tạo cảnh quan phù hợp với cồng trình là một trong những yêu cầu quan trọng của kiến trúc dân tộc, liên quan đến khí hậu, đến các phong tục tập quán, triết lý sống… (ví dụ như tại một số nước châu Á việc xây dựng liên quan đến thuyết phong thuỷ – một học thuyết về sự gắn bó chặt chẽ các yếu tố thiên- địa – nhân). Tại Việt Nam cảnh quan kiến trúc trong kiến trúc truyền thống là sự nối tiếp hài hoà của không gian nội thất trong nhà. Các hình thức không gian trống được sử dụng hợp lý cho từng loại công trình theo chức năng của chúng. Trong kho tàng các giá trị của kiến trúc dân tộc cho thấy từ xa xưa cha ông ta đã có những quan niệm hết sức hiện đại, mà giá trị của nó vẫn còn đang được tiếp tục nghiên cứu và phát triển hiện nay. Các công trinh kiến trúc dân tộc Việt Nam có quy mô không lớn, có vị trí rất khiêm tốn trong cảnh quan thiên nhiên chung quanh. Nhìn vào đó ta có thể thấy đặc điểm nổi bật là các tính chất của cảnh quan ban đầu không bị phá vỡ, tính tổng thể, thống nhất của không gian được bảo tồn. Đối với kiến trúc truyền thống, yếu tố không gian trống không phải là một bộ phận riêng biệt đối với công trình và ngược lại. Giữa những không gian này có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Không gian trống (trong đó bao gồm các yếu tố tự nhiên), và không gian nội thất công trình (có các yếu tố tự nhiên được đưa vào) là một cơ cấu không gian thống nhất, với các hình thái không gian chuyển tiếp với nhau mở I nửa đóng I đóng, tạo cảm giác về sự liên tục gắn bó chặt chẽ giữa con người với thiên nhiên theo triết lý về sự hợp nhất thiên I địa I nhân. Một trong những yếu tố đặc trưng của kiến trúc dân tộc là sử dụng khéo léo các hình thái không gian trống trong việc tổ chức các không gian chức năng đáp ứng các nhu cầu đa dạng của mình.
Không gian mở: thường phù hợp với các không gian có chức năng đáp ứng các nhu cầu văn hoá xã hội sôi động, náo nhiệt cho các sân đình. Tại đây không gian trống thường tập trang và thoáng. Không gian được mở ra bên ngoài để thu hút sự quan tâm của mọi người. Các hình thức kiến trúc nhỏ thường được tập trung tại đây để nhấn mạnh tính chất thẩm mỹ trọng tâm của cảnh quan khu vực này: (tượng, phù điêu, cột cờ với nhiều loại cờ có mầu sắc khác nhau). Trước sân đình thường có cổng vào được trang trí cẩn thận với nhiều câu đối, và bản thân cổng cũng là một công trình kiến trúc nhỏ có tính tạo hình điêu khắc cao…
Không gian nửa đóng: thường sử dụng cho đền, chùa nhằm đáp ứng những nhu cầu về tâm linh, sự thư giãn trong tinh thần của người dân và tạo tâm lý thanh thản bình yên, góp phần nhanh chóng xoá đi những ưu tư mệt nhọc của đời thường. Các khu vườn bên trong thường được thể hiện theo kiểu vườn nội thất, tạo sự ấm cúng, gần gũi thân mật dễ dàng đem đến sự tĩnh tại cho con người.
Không gian đóng: thường sử dụng cho các lăng tẩm của vua chúa. Không gian được tạo ra với hiệu quả tâm lý là đem đến sự tôn trọng, sùng kính, trang nghiêm và trầm tư cho những người tới đó. Không gian trầm mặc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự hồi tưởng, nhớ đến công đức người xưa…
Qua những phân tích trên có thể thấy kiến trúc dân tộc Việt Nam không chỉ gắn bó với thiên nhiên mà còn khai thác thiên nhiên rất hiệu quả thông qua sự khéo léo của cha ông ta trong việc khai thác các hình thái không gian trống để đạt được các hiệu quả tâm sinh lý đối với con người trên cơ sở các chức năng sử dụng của chúng.
Ngoài yếu tố thiên nhiên, kiến trúc dân tộc Việt Nam còn quan tâm nhiều tới tính phù hợp của kiến trúc với khí hậu địa phương. Tuỳ theo đặc điểm riêng của từng địa phương mà các giải pháp tổ chức không gian kiến trúc đáp ứng tiện nghi cho con người cũng rất khác nhau. Ví đụ vùng đổng bằng Bắc Bộ, nhà thường bố trí theo hướng gió chủ đạo là hướng Nam nên việc tổ chức cảnh quan kiến trúc không gian trống (sân trước) cũng bao gồm các giải pháp thích hợp để đáp ứng nhu cầu chống nóng, thông gió tốt như: sử dụng cây xanh cho bóng mát nhưng không cản gió (các loại cây có thân cao như cau, cọ…), .

Cơ sở chủ yếu thiết kế kiến trúc cảnh quan xí nghiệp công nghiệp

Thiết lập và bổ sung hoàn chỉnh các tiêu chuẩn thiết kế xây dựng, cho phép theo kịp trình độ quốc tế và phù hợp với hoài! cảnh điều kiện của Việt Nam;
Tóm lại qua những nét khái quát chung về quá trình hình thành và phát triển của tổ chức KTCQ các XNCN trên thế giới và trong nước, chúng ta có thể thấy được những ưu nhược điểm và phương hướng chủ yếu cần phải thực hiện trong thiết kế KTCQ các XNCN để đáp ứng các nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ mới. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét cơ bản sau:
KTCQ các XNCN từ sau 1986 được quan tâm đầu tư, khẳng định vai trò quan trọng của KTCQ trong môi trường sản xuất. Hình 1,2,4- sử dụng cáy xanh để trang trí và tạo tiện nghỉ vi khí hậu trong các không gian trống trong XNCN. Hình 3,5- sử dụng yếu tố hình khôi công trình để tổ chức cảnh quan. Hình 6 – Sử dụng tổng hợp các yếu tố tạo cảnh (cây xanh, kiến trúc nhỏ, công trình kiến trúc… đê tổ chức kiến trúc cảnh quan không gian trống khu trước XNCN của khu chế xuất Tân Thuận.
-     Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào quá trình phát triển trong giai đoạn mới của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, với mục tiêu to lớn là nhanh chóng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì vậy việc tổ chức và hoàn thiện kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp là một trong những giải pháp cần thiết giúp giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển và bảo vệ môi trường.
-     Các tiêu chuẩn thiết kế thi công cần được bổ sung, hoàn chỉnh cho phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
-     Gắn quá trình xây dựng, kiến trúc công nghiệp với công tác bảo vệ giữ gìn môi trường sinh thái, tạo ra sự cân bằng và hài hoà của môi trường nhân tạo với cảnh quan thiên nhiên xung quanh.
-     Sử dụng có chọn lọc các thành tựu mới trong khoa học và công nghệ thiết kế thi công các công trình xây dựng công nghiệp. Qua đó tổ chức hoàn thiện thêm một bước thẩm mỹ không gian sản xuất trong tổ chức KTCQ các XNCN nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, góp phần thay đổi bộ mặt của kiến trúc công nghiệp theo hướng tích cực.
- Cần gắn quá trình thiết kế thi công xí nghiệp công nghiệp với quá trình thiết kế kiến trúc cảnh quan như là một giải pháp gắn việc giải quyết các quá trình công nghệ sản xuất với vấn đề môi trường lao động, để biến các XNCN không còn chỉ là nơi sản xuất thuần tuý mà còn mang những nét nhân văn sâu sắc.
-     Dựa trên các cơ sở thực tiễn trong công tác tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp, đúc kết ưu nhược điểm, kết hợp đồng thời với các xu hướng phát triển chung của các nước tiên tiến trong tương lai.
-     Nghiên cứu đưa ra những cơ sở lý luận mang tính khoa học và khả thi để có thể đáp ứng nhu cầu mới trong đào tạo, cũng như trong quá trình thiết kế đồng bộ các XNCN, đảm bảo đem lại hiệu quả thẩm mỹ cao, đáp ứng tốt công tác tổ chức môi trường lao động, thoả mãn yêu cầu chung của xã hội trong thời kỳ mới.
Chương ra CƠ SỞ CHỦ YẾU THIẾT KẾ KIẾN TRÚC CẢNH QUAN xí NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
Tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp bao gồm tập hợp các giải pháp khoa học kỹ thuật và thẩm mỹ nhằm tạo ra một không gian sản xuất công nghiệp hợp lý, thuận tiện, đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý người lao động, bảo vệ và giữ được mối quan hệ hữu cơ với môi trờng sinh thái xung quanh. Nhìn chung về phương diện không gian có thể chia XNCN thành hai loại là không gian xây dựng công trình và không gian trống được giới hạn bởi chính các công trình đó. Có thể nói không gian trống là phần lãnh thổ không có công trình xây dựng. Kiến trúc cảnh quan trong XNCN được tổ chức trong không gian trống của phạm vi khu đất XNCN. Vì vậy việc tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các XNCN được hiểu như là toàn bộ việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ và tiện nghi lao động, nghỉ ngơi cho người lao động ở không gian bên ngoài nhà sản xuất. Khái niệm tổ chức kiến trúc cảnh quan XNCN có mối liên hệ chặt chẽ tới yếu tố con người, nên có thể coi đó như là giải pháp bổ xung giải quyết hài hoà mối quan hệ công nghệ sản xuất con người trong môi trường lao động. Thực tế cho thấy khi yếu tố con người chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng môi trường và thẩm mỹ các XNCN mất đi cơ sở chủ yếu để phát triển và hoàn thiện, vì một khối lượng thông tin rất lớn về ngoại giới được con người ghi lại bằng tình cảm. Một trong những thông tin quan trọng đó là thẩm mỹ. Trong lĩnh vực kiên trúc công nghiệp, không gian sản xuất là không gian tập trung cao nhất các thành tựu khoa học kỹ thuật của thời đại, với những yêu cầu cao, đa dạng và nghiêm ngặt của cơ cấu tổ chức sản xuất trong tổ chức mặt bằng hình khối không gian phục vụ cho sản xuất và người lao động.

Những nhiệm vụ và phương hướng chủ yếu trong tổ chức kiến trúc cảnh quan các xí nghiệp công nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Nhìn chung trong giai đoạn phát triển mới của kiến trúc công nghiệp nhằm thoả mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng cao của xã hội hiện nay, bên cạnh nhiều thuận lợi khách quan, chúng ta còn phải giải quyết nhiều khó khăn về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn trong việc tìm ra một hướng đi phù hợp về mọi mặt cho KTCN trong điều kiện Việt Nam. Trong đó vấn đề tổ chức KTCQ trong các XNCN là rất quan trọng, vì nó là một thành phần trong hệ thống môi trường và thẩm mỹ chung của khu vực và đô thị.
4. Những nhiệm vụ và phương hướng chủ yếu trong tổ chức KTCQ các XNCN của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Từ khi chúng ta chuyển đổi nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã gặp không ít khó khăn cũng như thuận lợi, đúng như nhận đinh của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã nói: “Công cuộc đổi mới trong mười năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Phát triển công nghiệp và xây dựng công nghiệp đang là một vấn đề lớn trong việc tạo tiền đề cho khả năng phát triển trước mắt và lâu dài của chúng ta. Chúng ta cần tốc độ để có thể nhanh chóng hoà nhập với trình độ chung của thế giới, song cũng cần thận trọng và chắc chắn trong các bước đi của mình để có thể sử dụng được kinh nghiệm tiên tiến của các nước và tránh những sai lầm mà họ đã mắc phải, nhất là trong các vấn đề về môi trường, mà vì trước đây chúng ta đã không nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của nó, nên hiện nay mỗi nước, cũng như toàn thế giới đang phải đối đầu với những hậu quả do việc phát ưiển quá mức, làm mất càn bằng sinh thái gây ra. Một trong những nguyên nhân lớn cho sự huỷ hoại môi trường là do công nghiệp và xây dựng công nghiệp gây ra.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, xây dựng công nghiệp của Việt Nam cần giải quyết hai vấn đề lớn. Một mặt cần duy trì và từng bước cải tạo các XNCN đã có, mặt khác cần sử dụng mọi tiềm năng về vốn trong nước, kết hợp với vốn đầu tư của nước ngoài hoặc vốn liên doanh để xây dựng các XNCN mới hiện đại có quy mô và định hướng phù hợp với kế hoạch phát triển lâu dài của đất nước. Trong tình hình đó, song song với những vấn đề đã nêu, việc nhận thức tổ chức KTCQ của XNCN như là một công cụ cho phép nâng cao chất lượng thẩm mỹ và môi trường sản xuất, cũng như hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái càng trở nên cần thiết và bức xúc hơn bao giờ hết.
Trong giai đoạn hiện nay chất lượng của sản phẩm được gắn bó chặt chẽ với’ công tác quản lý, và công tác môi trường (thông qua các tiêu chuẩn ISO, ví dụ như ISO 9002 về quản lý và ISO 140011 về môi trường). Điều này đã trực tiếp trở thành động lực cho công tác tổ chức KTCQ các XNCN được chú trọng và quan tâm đúng như tầm quan trọng của nhiệm vụ mà nó phải đảm nhận. Để hoà nhập với thương mại thế giới, các sản phẩm của chúng ta phải được sản xuất trong các XNCN có các tiêu chuẩn về môi trường lao động tương đương với các nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy trong thời gian tới phương hưởng tổ chức KTCQ của chúng ta trong các XNCN cũng phải tiến hành theo hướng sử dụng một cách có chọn lọc các thành tựu tiên tiến hiện đại trong lĩnh vực xây dựng và tổ chức kiến trúc cảnh quan của các nước phát triển trên thế giới, sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế I kỹ thuật, địa hình khí hậu và tâm sinh lý người lao động Việt Nam :
-     Các xí nghiệp công nghiệp nên tổ chức KTCQ theo hướng nâng cao chất lượng thẩm mỹ các không gian sản xuất, lao động. Giữ gìn vệ sinh công nghiệp và bảo vệ môi trường ;
-  Ngoài việc đầu tư phát triển theo chiều sâu về mặt công nghệ, cần đầu tư cải tạo nâng cấp nhà xưởng và nhất là tìm các giải pháp thích hợp với từng điều kiện cụ thể để từng bước hoàn thiện KTCQ trong các khu vực chức năng của XNCN, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người lao động ;
-     Hạp khối, nâng cao mật độ xây dựng, kết hợp phát triển công trình thẹo phương đứng (trong các điều kiện có thể) ;
-  Nghiên cứu khả năng hợp tác các công trình cung cấp kỹ thuật và giao thông giữa các XNCN trong các khu công nghiệp và tập trang công nghiệp, tạo điều kiện nâng cao mật độ xây dựng, thuận lợi cho tổ chức KTCQ của XNCN, cải tạo điều kiện vi khí hậu, bảo vệ môi trường và nâng cao thẩm mỹ chung của khu vực ;
- Sử dụng hợp lý các yếu tố cảnh quan thiên nhiên kết hợp khả năng phát triển trong tương lai của xí nghiệp phải được thiết, kế đồng bộ ngay từ ban đầu ;

Thời kỳ từ 1986 tới nay (giai đoạn kinh tế thị trường)

-   Tổng mặt bằng thường sử dụng giải pháp phân khu phân tán (trong từng khu vực chức năng, các công trình vẫn bố trí đơn lẻ, độc lập nhau), nên trên khu đất XNCN thường tạo thành nhiều không gian trống quy mô nhỏ, dễ có điều kiện kết hợp vối thiên nhiên, nhưng không tạo được điều kiện tập trung đầu tư nâng cao các điều kiện tiện nghi và thẩm mỹ của xí nghiệp;
-   Các khu chức năng trên tổng mặt bằng được phân chia rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho dây chuyền sản xuất và tổ chức hoàn thiện tiện nghi, thẩm mỹ cho người lao động ;
-   Số lượng các hạng mục công trình trên TMB lớn, hạn chế tầm nhìn, cản trở việc thụ cảm môi trường KTCQ của XNCN;
-   Công tác tổ chức kiến trúc cảnh quan trong nhà máy còn thiếu cơ sở khoa học và mang tính tự phát. Các khu vực chức năng trong quá trình mở rộng phát triển thiếu tổ chức, làm thay đổi cơ cấu không gian trong xí nghiệp, nên ảnh hưởng tái việc hoàn thiện chất lượng của KTCQ xí nghiệp.
Hình 11-5. Tình trạng cảnh quan kiến trúc một sô XNCN trước 1986. Hình 1,2- cảnh quan khu trước xí nghiệp của khu tập trung công nghiệp Thượng Đình. Hình 3,4- Hiện trạng cảnh quan khu Thượng Đình khi có sự quan tâm hơn của các XNCN về phương diện cảnh quan. Hình 5, 6 I Sự hình thành không gian trông một cách tự phát và sự lộn xộn, thiếu quan tâm của cảnh quan kiến trúc XNCN.
-  Môi trường sản xuất và vi khí hậu chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, ảnh hưởng chưa tốt tới vệ sinh môi trường và chất lượng thẩm mỹ của cảnh quan trong XNCN ;
-  Chưa thực sự quan tâm tới việc sử dụng các giải pháp kiến trúc vào công tác bảo vệ môi trường, giảm các ảnh hưởng xấu do quá trình sản xuất gây ra đối với môi trường chung quanh;
1.7.5.5. Thời kỳ từ 1986 tới nay (giai đoạn kinh tế thị trường)
Đây là thời kỳ mà trên mọi lĩnh vực KHKT và kinh tế-xã hội của chúng ta có khả năng giao lưu rộng rãi nhất từ trước tới nay. Trình độ dân trí ngày càng cao, vì vậy nhiệm vụ được xã hội giao cho đối với xây dựng và kiến trúc công nghiệp là cần phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng thẩm mỹ.
Chúng ta đang có nhiều thuận lợi về kỹ thuật xây dựng và vật liệu mới, nhưng cũng đang gặp nhiều khó khăn trong việc tìm một hướng đi thích hợp vối điều kiện hoàn cảnh kinh tế, và thiên nhiên khí hậu Việt Nam, cũng như tâm sinh lý người lao động, đồng thời vẫn phải hoà nhập và theo kịp trình độ phát triển chung trong lĩnh vực KTCN thế giới.
Tĩnh hình chung của việc tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các XNCN giai đoạn hiện nay được biểu hiện qua một số nét lớn như sau:
-  Mặt bằng chung của các XNCN được tổ chức theo kiểu phân khu tập trung và hợp khối toàn bộ (đối với các công trình có công nghệ linh hoạt và quy mô nhỏ), đây là yếu tố tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tổ chức sản xuất và công tác hoàn thiện môi trường KTCQ trong xí nghiệp ;
- Các xí nghiệp công nghiệp hiện đại mới xây dựng thường sử dụng giải pháp quy hoạch hợp khối, nên không gian trống quanh công trình có quy mô lớn và tập trung, đòi hỏi cần có các giải pháp thích hợp trong điều kiện thực tế của chúng ta ;
-  Việc tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các XNCN được chú ý, quan tâm, vì hình ảnh của các XNCN hiện nay một phần nào là quảng cáo cũng như phản ánh chất lượng sản phẩm của XNCN. Tuy nhiên các giải pháp tổ chức KTCQ sử dụng chưa đồng bộ, do đó không tạo được sự gắn bó, mối quan hệ hữu cơ giữa hình khối công trình với không gian chung quanh nó thành một tổng thể thống nhất;
-  Quan hệ thống nhất giữa các không gian trong XNCN với nhau và với không gian cảnh quan chung quanh chưa gắn bó chặt chẽ, làm cho KTCQ của XNCN trở nên thiếu hài hoà với môi trường KTCQ chung quanh, trong nhiều trường hợp làm giảm chất lượng thẩm mỹ của quy hoạch đô thị;
-  Hiện nay trong nhiều khu công nghiệp tập trung, kiến trúc cảnh quan của các XNCN cũng chính là một bộ phận của kiến trúc cảnh quan của KCN, còn KTCQ của KCN là một bộ phận của kiến trúc cảnh quan đô thị, tuy nhiên tỉnh hệ thống đó của việc tổ chức kiến trúc cảnh quan chưa được quan tâm đầy đủ, làm hạn chế những đóng góp đáng kể về phương diện thẩm mỹ và môi trường của kiến trúc công nghiệp đối với đô thị;
-     Nhiều xí nghiệp công nghiệp có quan tâm tới việc tổ chức KTCQ, nhưng chủ yếu chỉ quan tâm tới mặt thẩm mỹ, trang trí, còn các yêu cầu khác về tiện nghi sử dụng và vi khí hậu chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, ảnh hưởng đến sự an toàn và sức khoẻ người lao động;
- Nhiều XNCN chưa kết hợp các giải pháp tổ chức KTCQ trong XNCN với việc giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường. Kiến trúc cảnh quan trong các XNCN tuy đã mang phong cách hiện đại nhưng lại chưa quan tâm thích đáng tới các đặc điểm khí hậu và tâm sinh lý người lao động Việt Nam ;
- Chưa có các tiêu chuẩn, quy định cụ thể đối với công tác tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các XNCN và KCN, đẫn đến việc thiết kế kiến trúc cảnh quan trong các XNCN còn tuỳ tiện (tuỳ thuộc vào ý thức của người đầu tư và thiết kế), ngoài ra còn thiếu tính đồng bộ và thống nhất, vì còn thiếu nhiều tiêu chuẩn mang tính pháp lý.

Kiến trúc cảnh quan xí nghiệp thời kỳ từ 1954 đến 1986

-  Hệ thống cây xanh tồn tại chỉ mang tính tự phát, không khai thác được hết các khả năng có thể sử dụng của chúng, hạn chế quan hệ hài hoà giữa công trình XNCN với thiên nhiên và môi trường chung quanh ;
Nhìn chung ở giai đoạn này sự thiếu đồng bộ của các yếu tố cảnh quan trong các XNCN đã cản trở việc hình thành các yếu tố thẩm mỹ tích cực cần phải có trong môi trường lao động.
113.2. Thời kỳ từ 1954 đến 1986 (trước thời kỳ đổi mới ở Việt Nam)
Đây là giai đoạn chúng ta tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội với sự trợ giúp của các nước trong phe XHCN, trong đó vai trò lớn thuộc về Liên Xô (cũ) và Trung Quốc. Trên nền bối cảnh kinh tế xã hội và chính trị như vậy, dấu ấn của nó cũng được in đậm trong công tác xây dựng công nghiệp của chúng ta.
Nhìn chung dưới thời kỳ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của đất nước, trong các XNCN vai trò của người lao động được nâng cao, vì vậy các điều kiện tiện nghi cho sinh hoạt, sần xuất và môi trường vi khí hậu được quan tâm chú ý hơn, môi trường kiến trúc cảnh quan tiện nghi trong các XNCN được cải thiện.
Tuy nhiên do vốn đầu tư hạn hẹp, kéo dài qua nhiều năm nên đầu tư xây dựng cống nghiệp mới chỉ chú ý tới sản xuất, hình khối kiến trúc công trình và việc tổ chức KTCQ nói chung mới chỉ đáp ứng ở mức tối thiểu nhất. Các yếu tố cảnh quan thiên nhiên chưa được chú ý khai thác trong việc tổ chức KTCQ. Qua khảo sát thực tế, hiện trạng cây xanh trong 30 XNCN của Việt Nam cho thấy cây xanh chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với diện tích của khu đất XNCN, 7% đến 10% (xem phụ lục 1), trong khi đó diện tích cây xanh của các XNCN nước ngoài thường chiếm 20% đến 30% diện tích xí nghiệp. Trong các XNCN của Việt Nam, hệ thống cây xanh được tổ chức chủ yếu theo tuyến, dọc theo các đường giao thông, để lấy bóng mát. Cây xanh tập trung chỉ có trong 4 xí nghiệp (trong tổng số 30 XNCN đã khảo sát), là dệt 8/3, dệt Minh Phương, Gông ty bóng đèn, phích nước Rạng Đông, công ty sợi Hà Nội. Nhìn chung trong các XNCN của Việt Nam do nước ngoài giúp đỡ về tài chính để xây dựng có tỷ lệ cây xanh cao hơn so với các XNCN do chúng ta tự đầu tư. Điều này nói lên sự thiếu quan tâm chú ý đầu tư cho công tác tổ chức cây xanh nói riêng, và công tác hoàn thiện nói chung trong XNCN. Thực tế cho thấy nguyên nhân cơ bản của Vấn đề trên là, một mặt do vốn đầu tư trong nước quá hạn hẹp, chỉ tập trung chủ yếu giải quyết các yêu cầu về công năng sản xuất là chính, mặt khác các tiêu chuẩn thiết kế đối với công tác tổ chức kiến trúc cảnh quan trong XNCN còn chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ. Đối với nhiều XNCN do nước ngoài giúp đỡ thiết kế, xây dựng, việc tổ chức cảnh quan, tiện nghi trong xí nghiệp thường được chú trọng tương đối tốt, nhưng trong quá trình xây dựng và phát triển theo từng giai đoạn, các thiết kế đó bị thay đổi một cách tuỳ tiện theo yêu cầu nhất thời của ban lãnh đạo xí nghiệp, hoặc trong nhiều trường hợp, diện tích dành cho cây xanh và tổ chức cảnh quan bị chuyển đổi thành các khu vực chức năng sản xuất khác, làm biến dạng và thay đổi lớn tới kiến trúc cảnh quan chung của XNCN.
Có thể lấy một ví dụ điển hình cho tình trạng này là sự thay đổi thiết kế của công ty sợi Hà Nội- Đây là một nhà máy có quy mô tương đối lớn và hoàn chỉnh của nước ta, do Cộng hoà liên bang Đức giúp thiết kế, xây dựng từ những thập kỷ 80. Diện tích chiếm đất là 11 ha, diện tích cây xanh, thảm cỏ chiếm khoảng 25%. Nhìn chung đây là một XNCN có môi trường kiến trúc cảnh quan đẹp và hiện đại so với nhiều nhà máy, XNCN khác ở Hà Nội, cũng như trong cả nước. Tuy nhiên một nhược điểm đáng tiếc là trong quá trình phát triển, khu vực phía sau của xí nghiệp bố trí thêm các phân xưởng sản xuất có mật độ xây dựng cao, hộ thống giao thông giữa các xưởng chật hẹp (đổng thời là khoảng cách để thông gió và lấy ánh sáng giữa các nhà sản xuất) chỉ có chiều rộng 3,5m, nên không đủ điện tích để làm vỉa hè. Cây xanh trồng sát cửa sổ, hạn chế khả năng thông thoáng và chiếu sáng của phân xưởng (trong khi đó, hệ thống giao thông của khu vực phía ngoài là 9m, kết hợp với hộ thống cây xanh thảm cỏ ở hai bên dường, mỗi bên có chiều rộng 12m, vì vậy chiều rộng khoảng không gian giữa hai phân xưởng sản xuất là 33m, tạo nên cảnh quan kiến trúc hài hoà, thoáng đãng giữa công trình và thiên nhiên). Trong thực tế khi ta vào thâm quan nhà máy, ấn tượng bị thay đổi rất lớn, khi đi từ khu vực nhà máy được thiết kế xây dựng đồng bộ từ trước, vào khu vực xí nghiệp nhuộm (là diện tích xây dụng, phát triển về sau). Nếu khu vực phía trước có sự đồng bộ về công năng, cảnh quan kiến trúc, thì khu vực phía sau chỉ còn tồn tại yếu tố công năng. Một số XNCN do nước ngoài thiết kế và đầu tư toàn bộ đã không tính đến hoặc có nhiều thiếu sót trong việc đã bỏ qua nhũng yếu tố thiên nhiên khí hậu, đặc điểm kinh tế xã hội và tâm sinh lý người lao động Việt Nam. Tất cả những vấn đề trên được phản ánh qua một số đặc trưng sau :
Chia sẻ :
Các tin khác

0 nhận xét :

Đăng nhận xét

Tin cho thuê mới

Lời khuyên

Hỏi - Ðáp

TƯ VẤN NỘI - NGOẠI THẤT

Tư vấn nội - ngoại thất từ chuyên gia
xuongchothue.com


Seo Blogspot, kho xưởng ; mua Seo Blogspot xưởng, mua Seo Blogspot đất; cho thuê chung cư, căn hộ,...
Xuongchothue.com 1.000.000 tin mua bán và Seo Blogspot, kho xưởng, Seo Blogspot tại Việt Nam. Chúng tôi liệt kê danh sách nhiều thông tin Seo Blogspot nhất phục vụ mọi nhu cầu, từ phòng trọ tới biệt thự cao cấp. Bạn là nhà đầu tư hay gia đình cần nhà để ở? xuongchothue.com đều có thể giúp bạn. Tìm tin Seo Blogspot đất hoặc cho thuê Seo Blogspot mới nhất bằng cách sử dụng công cụ tìm kiếm hoặc các đường link ngay trên trang chủ.
 

Powered By Khám Phá Blog's